Bệnh gout trong dân gian gọi là bệnh thống phong, gặp khá phổ biến, chủ yếu ở người trưởng thành, nhất là nam giới, do không điều trị được dứt điểm cho nên khi về già bệnh vẫn cứ đeo đẳng và trầm trọng thêm. Ở nước ta bệnh gout đã trở nên rất phổ biến, đứng hàng thứ 4 trong 15 bệnh khớp nội trú thường gặp nhất.
Nguyên nhân của bệnh gout là do sự tăng cao acid uric trong máu. Trong bệnh gout, sự thay đổi khác thường của các phản ứng trong cơ thể dẫn đến chất acid uric được tạo ra nhiều hơn hoặc là không được lọc thải ra kịp bằng đường tiểu. Khi acid uric tăng cao trong máu, chúng kết hợp lại và tạo nên những khối trong suốt gọi là tinh thể urat. Chất urat sẽ lắng đọng trong màng hoạt dịch của khớp gây viêm khớp. Ngoài ra, acid uric còn có thể lắng đọng ở các cơ quan khác như thận, tổ chức dưới da gây nên sỏi thận và hình thành các hạt tophy.
Bệnh gout thường xảy ra ở người cao tuổi (NCT) và đa số là nam giới. Bởi vì ở độ tuổi này, các rối loạn chuyển hóa thường rõ rệt và thường xuyên hơn, do vậy thường có kèm theo các yếu tố thuận lợi làm xuất hiện hoặc tái phát bệnh gout (thừa cân, ăn nhiều chất đạm, đặc biệt là các phủ tạng động vật) mà trong thời còn trẻ đã mắc bệnh gout. Hoặc có thể gặp ở những người rối loạn chuyển hóa lipip máu, đái tháo đường, bệnh mạch vành hoặc ở người thường ăn các thức ăn chế biến sẵn, uống nhiều đồ uống có cồn cũng có nguy cơ mắc bệnh gout. Uống ít nước, xơ vữa động mạch sẽ làm giảm khả năng bài tiết acid uric qua đường tiểu cho nên gây sự lắng đọng ở khớp và một số cơ quan khác của cơ thể.
Chính những khối tinh thể muối urat tích tụ ở các khớp xương và dẫn đến sự viêm, sưng tấy cũng như đau nhức cho người bệnh. Sự tích tụ nhiều tinh thể urat ở các khớp làm cho các khớp sưng lên. Ngoài ra, sự tăng chất acid uric trong máu sẽ lắng đọng urat trong thận gây sỏi thận.
Có hai loại bệnh gout - đó là cấp và mạn tính. Khi bị gout cấp tính, người bệnh thường đau khớp dữ dội, rát bỏng là hai triệu chứng đặc trưng. Các triệu chứng này thường xuất hiện vào lúc nửa đêm về sáng, nhất là sau các bữa ăn có nhiều đạm, uống bia, rượu. Tại các khớp đau có hiện tượng viêm rõ rệt (sưng, nóng, đỏ, đau). Đặc điểm trong viêm khớp của bệnh gout là các khớp đau không đối xứng. Các khớp đau thường hay gặp là khớp cổ chân, khớp ngón chân, khớp gối và đặc biệt là khớp ngón chân cái (ở nữ thường đau các khớp ngón tay). Trong bệnh cấp tính, acid uric máu thường tăng cao.
Đối với gout mạn tính, thường đau một số khớp xương nhưng không phải đau thường xuyên mà đau tái đi tái lại nhiều lần. Mỗi lần lên cơn đau có khi không điều trị gì cũng tự khỏi. Chính vì lẽ đó mà NCT mắc bệnh gout rất dễ chẩn đoán nhầm với bệnh thoái hóa khớp hoặc viêm khớp dạng thấp vì triệu chứng nhau.
Rất nhiều người lo lắng về biến chứng của bệnh gout. Bởi vì khi lên cơn đau của bệnh gout, người bệnh đã khổ sở chống chọi, trong khi phải kiêng khem đủ thứ, nay nếu có biến chứng khiến bệnh lại càng phức tạp hơn nữa. Bản chất của các hạt tophy là tinh thể urat. Hạt tophy có khả năng làm biến dạng các khớp, do đó dần dần sẽ làm hạn chế vận động của khớp, đi lại khó khăn, nặng hơn nữa là gây tàn phế. Các hạt tophy có thể bị vỡ khiến vi khuẩn xâm nhập khớp gây viêm khớp nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết rất nguy hiểm. Bệnh gout mạn tính có thể gây lắng đọng muối urat trong thận tạo thành sỏi thận, do đó, có thể làm tăng nguy cơ thận ứ nước, ứ mủ gây suy thận, tăng huyết áp. Một số trường hợp chất urat còn lắng đọng ở dưới da tạo nên các u, cục gây đau và mất thẩm mỹ. Ngoài ra, biến chứng của bệnh gout có thể do dùng thuốc điều trị, điển hình là gây dị ứng, nhất là loại allopurinol hoặc tác dụng phụ của các thuốc chống viêm corticoid hoặc không steroid làm tổn hại đến hệ tiêu hóa, máu, thận...
Để hạn chế các biến chứng do bệnh gout gây ra, người bệnh cần được khám chuyên khoa xương khớp càng sớm càng tốt mỗi khi có đau, viêm khớp. Song song với việc dùng thuốc, rất cần kết hợp ăn kiêng và tăng lượng nước uống, theo chỉ dẫn của bác sĩ điều trị. Các loại phủ tạng động vật, hải sản, rượu, bia, chất uống có cồn tuy là loại “khoái khẩu” nhưng sẽ làm gia tăng và tái phát bệnh gout nên cần tránh hoặc hạn chế sử dụng.
Cần thực hiện chế độ ăn giảm đạm, giảm mỡ, giảm cân (nếu béo phì), ăn nhiều rau, trái cây và uống nhiều nước (khoảng 1,5-2 lít nước/ngày), đặc biệt là nước khoáng kiềm (để tăng cường thải tiết acid uric qua nước tiểu). Cần bỏ rượu, bia (kể cả rượu vang, rượu thuốc) và không nên để bị đói (vì acid uric trong máu tăng cao khi đói). Nên có chế độ sinh hoạt điều độ, làm việc nhẹ nhàng, tránh mỏi mệt cả về tinh thần lẫn thể chất (tránh lạnh, lao động quá mức, chấn thương, stress...). Ngoài ra, bệnh nhân gout cần tránh dùng một số loại thuốc có thể làm tăng acid uric máu như các thuốc lợi tiểu, corticoid, aspirin.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh