- Thí nghiệm về sự tuân thủ – Asch Conformity Experiment. Solomon Asch. 1951. Chỉ ra sức mạnh của áp lực đồng thuận trong nhóm xã hội, kể cả khi nhóm sai rõ ràng.
- Thí nghiệm về sự vâng lời – Milgram Obedience Experiment. Stanley Milgram. 1961-1963. Làm sáng tỏ sự vâng lời mù quáng trước thẩm quyền – ngay cả khi hành vi đi ngược đạo đức.
- Thí nghiệm nhà tù Stanford – Stanford Prison Experiment. Philip Zimbardo. 1971. Tình huống và vai trò xã hội có thể khiến con người hành xử cực đoan, ngoài dự đoán.
- Thí nghiệm về bất hòa nhận thức – Cognitive Dissonance Study. Leon Festinger & James Carlsmith. 1959. Con người có xu hướng thay đổi niềm tin để giảm mâu thuẫn nội tâm khi hành vi và thái độ không khớp.
- Thí nghiệm Robbers Cave Experiment. Muzafer Sherif. 1954. Hình thành bản sắc nhóm dễ gây xung đột; tuy nhiên mục tiêu siêu đẳng có thể làm giảm mâu thuẫn nhóm.
- Thí nghiệm Bobo Doll Experiment. Albert Bandura. 1961. Khẳng định học qua quan sát là cơ chế quan trọng trong hành vi xã hội.
- Thí nghiệm hiệu ứng người ngoài cuộc – Bystander Effect (Kitty Genovese). John Darley & Bibb Latané. 1968. Phát hiện ra hiệu ứng phân tán trách nhiệm, giải thích vì sao người ta thờ ơ trong đám đông.
- Thí nghiệm Deviant in the Group Experiment. Schachter. 1951. Cho thấy áp lực đồng thuận và sự trừng phạt xã hội đối với người đi ngược nhóm.
- Thí nghiệm Người Samari nhân hậu – Good Samaritan Experiment. Darley & Batson. 1973. Hoàn cảnh và thời gian ảnh hưởng hành vi đạo đức hơn là niềm tin cá nhân.
- Thí nghiệm Minimal Group Paradigm. Henri Tajfel. 1970. Chứng minh con người thiên kiến nhóm trong (ingroup bias) chỉ cần điều kiện tối thiểu để phân biệt nhóm.
Thí Nghiệm Robbers Cave
Lý do nào khiến các cuộc xung đột có nguy cơ xảy ra giữa các nhóm khác nhau? Theo nhà tâm lý học Muzafer Sherif, xung đột giữa các nhóm có xu hướng phát sinh từ sự cạnh tranh các nguồn lực, sự dập khuôn cũng như định kiến. Trong một thí nghiệm gây nhiều tranh cãi, các nhà nghiên cứu chia 22 cậu bé trong độ tuổi từ 11 – 12 vào hai nhóm tại công viên Robbers Cave ở Oklahoma. Những đứa bé được chia thành hai nhóm và trải qua tuần đầu tiên của thí nghiệm để kết nối thành viên giữa các nhóm với nhau.
Đến giai đoạn 2 của thí nghiệm, những đứa trẻ nhận ra rằng còn có một nhóm khác, lúc này những người làm thí nghiệm đặt hai nhóm ở vị trí cạnh tranh trực tiếp với nhau. Điều đó dẫn đến mối bất hòa lớn, khi các cậu bé quý mến các thành viên trong nhóm mình hơn và gièm pha thành viên của nhóm còn lại. Ở giai đoạn cuối, các nhà nghiên cứu tổ chức những nhiệm vụ đòi hỏi hai nhóm phải làm việc cùng nhau. Những nhiệm vụ này giúp các cậu bé hiểu thêm về các hành viên trong nhóm còn lại và cuối cùng dẫn đến sự đình chiến giữa các đối thủ.
Thí Nghiệm “Nhạc Công Violin Ở Ga Tàu Điện Ngầm”
Năm 2007, nhạc công violin nổi tiếng Josh Bell đóng vai một nghệ sĩ đường phố ở ga tàu điện ngầm đông đúc tại thủ đô Washington D.C. Bell vừa cháy vé một buổi hòa nhạc với giá mỗi vé trung bình khoảng 100$. Ông là một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất thế giới và chơi nhạc bằng cây violin được làm thủ công trị giá trên 3.5 triệu đô. Tuy nhiên, đa phần mọi người đều hối hả lướt qua mà không dừng lại để lắng nghe tiếng nhạc. Khi những đứa trẻ thỉnh thoảng đứng lại để nghe nhạc, cha mẹ chúng sẽ nhanh chóng kéo chúng đi.
Thí nghiệm đã làm dấy lên nhiều câu hỏi thú vị về cách chúng ta đánh giá vẻ đẹp và liệu rằng chúng ta có thực sự đứng lại để thưởng thức những vẻ đẹp xung quanh ta.
Thí Nghiệm Cầu Thang Phím Đàn
Làm sao để con người thay đổi những hành vi thường ngày và có những lựa chọn lành mạnh hơn? Trong một thí nghiệm xã hội được tài trợ bởi Volkswagen như một phần của “Sáng kiến học thuyết vui vẻ”, khiến những hoạt động vô vị nhất trở nên thú vị để truyền cảm hứng cho con người thay đổi hành vi thái độ của họ. Trong thí nghiệm, một cầu thang được biến thành một bàn phím piano khổng lồ. Ngay bên cạnh cầu thang là một thang máy cuốn để mọi người có thể lựa chọn giữa đi bộ hoặc dùng thang cuốn.
Kết quả cho thấy hơn 66% người chọn đi thang bộ thay vì thang cuốn.
Thêm vào một vài yếu tố thú vị có thể truyền cảm hứng khiến con người thay đổi hành vi theo cách lành mạnh hơn.
Thí Nghiệm Kẹo Dẻo
Khoảng cuối thập kỷ 60 đến đầu thập kỷ 70, nhà tâm lý học Walter Mischel đã tiến hành hàng loạt các cuộc thí nghiệm về sự trì hoãn ham muốn. Mischel muốn tìm hiểu liệu khả năng trì hoãn ham muốn có thể dự báo thành công trong cuộc sống tương lai không. Trong các thí nghiệm, trẻ em ở độ tuổi 4 - 6 được đặt trong một căn phòng có đồ ngọt (thường là kẹo dẻo hoặc bánh quy). Trước khi rời khỏi phòng, họ sẽ nói với từng đứa trẻ rằng chúng sẽ nhận được thêm bánh kẹo nếu số bánh kẹo ban đầu vẫn ở trên bàn sau 15 phút.
Những nghiên cứu tiếp tục được tiến hành nhiều năm sau đó cho thấy những đứa trẻ có khả năng trì hoãn ham muốn có tài năng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả việc học. Những đứa trẻ này thường có điểm SAT và cấp bậc giáo dục cao hơn.
Kết quả cho thấy khả năng này không chỉ là kỹ năng cần thiết cho thành công mà còn hình thành từ rất sớm và kéo dài xuyên suốt cuộc đời.
Thí Nghiệm Căn Phòng Khói
Nếu bạn thấy ai đó gặp rắc rối, bạn có cố gắng giúp đỡ họ không? Những nhà tâm lý học đã tìm ra câu trả lời rằng điều đó phụ thuộc vào số lượng người chứng kiến. Chúng ta thường sẽ giúp đỡ người khác khi ta là nhân chứng duy nhất không có ai chứng kiến, nhưng khi chúng ta đứng giữa đám đông thì tỉ lệ giúp đỡ lại ít hơn.
Hiện tượng này gây chú ý trong công chúng sau vụ giết người đáng sợ mà nạn nhân là một cô gái trẻ có tên Kitty Genovese xảy ra. Rất nhiều người có thể đã chứng kiến cuộc tấn công ấy nhưng không một ai kêu gọi sự giúp đỡ cho đến khi đã quá muộn. Hành vi này được xác định như một ví dụ của hiệu ứng người ngoài cuộc, hay sự thất bại trong việc ai đó hành động trước sự chứng kiến của nhiều người khác.
Trong một thí nghiệm kinh điển, các nhà nghiên cứu đặt những người tham gia trong một căn phòng để điền vào bảng câu hỏi. Đột nhiên, phòng bị lấp đầy bởi khói. Trong một số trường hợp, người tham gia chỉ có một mình, một số khác thì có 3 người cùng tham gia trong phòng và trong tình huống cuối cùng có 1 người tham dự và 2 người đóng vai. Ở tình huống có 2 người đóng vai trong thí nghiệm, những diễn viên này lờ đi việc có khói và tập trung điền bảng câu hỏi của họ.
Khi chỉ có một mình, khoảng 3/4 người tham gia rời khỏi phòng và bình tĩnh báo cho những nhà nghiên cứu về tình trạng có khói bốc ra. Trong tình huống có 3 người tham dự trong phòng, chỉ dưới 40% báo cáo về khói. Trong tình huống cuối, khi 2 người đóng vai lờ đi, chỉ 10% người tham gia báo cáo có khói.
Thực nghiệm này là một ví dụ tuyệt vời về tỷ lệ con người dựa trên phản ứng của người khác để quyết định hành động của họ.
Khi điều gì đó xảy ra, nhưng không ai phản ứng, mọi người có xu hướng lờ đi và cho rằng phản hồi là không cần thiết.
Thí Nghiệm Xã Hội Carlsberg
Đã bao giờ bạn cảm thấy mọi người đánh giá bất công về bạn dựa trên ngoại hình? Hay bạn đã từng có ấn tượng đầu sai về ai đó dựa trên bề ngoại của họ chưa? Thật không may, con người thường nhanh chóng đưa ra nhận định dựa trên đánh giá chớp nhoáng khi lần đầu họ gặp ai đó. Những ấn tượng này chủ yếu dựa vào vẻ bề ngoài, đôi khi khiến người ta bỏ qua những tính cách và phẩm chất bên trong.
Trong một thí nghiệm xã hội khá thú vị mà ban đầu chỉ là một quảng cáo, những cặp đôi bước vào một rạp chiếu phim đông đúc. Trong số 150 ghế ngồi chỉ còn 2 ghế trống duy nhất. Và 148 ghế còn lại được bao quanh bởi những gã biker to con đáng sợ ngồi.
Bạn sẽ làm gì trong tình huống này? Bạn sẽ bước vào ghế đã mua để thưởng thức bộ phim hay cảm thấy bị đe dọa và bỏ đi? Trong thí nghiệm chính thức, không phải tất cả các cặp đôi đều ngồi xuống xem phim, chỉ có 1 số ít cặp đôi quyết định ở lại và họ không chỉ nhận được sự cổ vũ từ đám đông mà còn được tặng bia Carlsberg miễn phí.
Đây là một ví dụ hay cho thấy vì sao chúng ta không nên đánh giá mọi thứ chỉ qua vẻ bề ngoài.
Thí Nghiệm Hiệu Ứng “Hào Quang”
Ở một thí nghiệm được miêu tả trong bài báo xuất bản năm 1920, nhà tâm lý học Edward Thorndike yêu cầu các sĩ quan chỉ huy quân đội xếp hạng cho phẩm chất của những người cấp dưới. Thorndike nhận thấy ấn tượng về phẩm chất của ai đó, ví dụ như trí thông minh, vượt qua cả những nét đặc trưng cá nhân khác như khả năng lãnh đạo, lòng trung thành và sự trung thực.
Thorndike khám phá ra rằng khi con người có ấn tượng tốt về tính cách của ai đó, những cảm xúc này dễ làm ảnh hưởng đến nhận thức về những phẩm chất khác.
Ví dụ, nghĩ rằng ai đó rất thu hút có thể tạo ra hiệu ứng hào quang dẫn đến việc tin rằng người đó tốt bụng, thông minh và vui tính. Hiệu ứng ngược lại cũng luôn đúng. Cảm giác tiêu cực về tính cách của ai đó sẽ dẫn đến ấn tượng xấu về những đặc điểm khác của họ.
Thí Nghiệm Sự Đồng Thuận Giả
Vào cuối thập kỷ 70, nhà nghiên cứu Lee Ross cùng các đồng nghiệp đã làm một vài thí nghiệm bất ngờ. Trong một thí nghiệm, các nhà nghiên cứu mời những người tham gia chọn cách phản ứng với cuộc xung đột tưởng tượng và sau đó tính toán xem có bao nhiêu người có cùng đáp án. Họ phát hiện ra rằng bất kể lựa chọn là gì, những người tham gia đều có xu hướng cho rằng đa phần mọi người đều sẽ chọn giống nhau.
Trong một nghiên cứu khác, các nhà thí nghiệm đã yêu cầu sinh viên trong khuôn viên trường đi xung quanh và mang theo một tấm quảng cáo lớn có dòng chữ “Ăn tại Joe’s”. Sau đó, họ yêu cầu các sinh viên ước lượng có bao nhiêu người sẽ đồng ý cầm biển quảng cáo. Họ nhận thấy những người đồng ý thường cho rằng đa phần người khác cũng sẽ đồng ý thực hiện. Những ai từ chối cầm tấm biển đó cũng cho rằng mọi người sẽ không đồng ý.
Kết quả của những thí nghiệm này đã đưa ra một khái niệm trong tâm lý học được gọi là “Hiệu ứng đồng thuận giả”.
Bất kể đức tin, lựa chọn hay hành vi của chúng ta là gì, ta có xu hướng tin rằng đa số người khác cũng đồng ý và hành động giống chúng ta.