1. Phải lưu tâm đến các yếu tố xã hội quyết định đến sức khỏe, hệ thống chăm sóc sức khỏe, chăm sóc toàn diện, lấy người bệnh làm trung tâm, chất lượng chăm sóc và quản lý cân nặng "như một điều cần thiết thành phần của chăm sóc toàn diện.”
2. Các yếu tố xã hội bao gồm tình trạng kinh tế xã hội, điều kiện sống và làm việc, các lĩnh vực đa yếu tố (chẳng hạn như nhà ở và giáo dục), bối cảnh văn hóa xã hội và bối cảnh chính trị xã hội, chẳng hạn như hệ tư tưởng xã hội và các chính sách có thể dẫn đến sự khác biệt về chăm sóc
3. Khuyến khích sự chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm.
4. Chăm sóc toàn diện bao gồm bảo vệ tim mạch, quản lý yếu tố nguy cơ tim mạch, kiểm soát và đường huyết, coi tất cả các yếu tố này đều quan trọng như nhau.
5. Đề cập tình trạng trì trệ trong điều trị cần được giải quyết
6. Lần đầu tiên có đề cập đến các biến chứng về gan ở người bệnh ĐTĐ
7. Nhắc lại tầm quan trọng của tăng cường tập luyện thể chất suốt cả ngày và đêm, bao gồm hạn chế ngồi lâu, tăng số bước đi và thêm các bài tập đối kháng ngoài tập thể dục thông thường
8. Một yếu tố mới được nhắc đến là giấc ngủ - cả chất lượng và số lượng – cố gắng có được giấc ngủ tự nhiên.
9. Không còn khuyến nghị metformin là thuốc đầu tay mặc định cho mọi BN ĐTĐ typ 2, thừa nhận rằng các loại thuốc khác có thể phù hợp hơn khi BN có nhu cầu mạnh cần giảm nguy cơ tim mạch và/hoặc thận hoặc giảm cân.
10. Với những người trẻ tuổi, những người có tiến triển nhanh của bệnh ĐTĐ typ 2 và nguy cơ tim mạch rất cao, có thể cân nhắc điều trị tích cực bằng phối hợp thuốc sớm như trong thử nghiệm VERIFY.
11. Ngược lại, cũng cần phải xem xét tình trạng ốm yếu ở người lớn tuổi và khả năng gây ra các tác dụng phụ, khi kê đơn ở nhóm dân số này.
12. Lựa chọn thuốc hạ đường huyết phải dựa trên nhu cầu cá nhân của từng BN ĐTĐ typ 2 ví dụ như giảm nguy cơ biến cố tim mạch hoặc thận lần đầu hoặc tái phát, kiểm soát đường huyết cao hoặc giảm cân.
13. Có thể lựa chọn các loại thuốc mới như tirzepatide để vừa làm hạ đường huyết vừa giảm cân.
14. Có thể khởi trị thuốc ức chế SGLT-2 cho những BN có eGFR = 20 mL/ph
15. Hướng dẫn cũng cho biết những lỗ hổng bằng chứng, bao gồm các nghiên cứu so sánh về các phương pháp giảm cân, tầm soát và phòng ngừa bệnh ĐTĐ trong dân số hiện nay.
Xem toàn bộ tài liệu từ VNODIC