CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA THUỐC BVPX
Mặc dù đã tìm được một số thuốc BVPX có giá trị từ 30-40 năm trước đây, nhưng cơ chế tác dụng của thuốc vẫn đang là vấn đề phức tạp. Có thể nêu một số thuyết sau:
Thuyết "lý - hoá"
Theo Bacq và Alecxander (1955): hiệu lực BVPX của một số chất đạt được là do chúng có khả năng kết hợp với gốc tự do- sinh ra do bức xạ ion hoá, làm cho các gốc tự do này mất hoạt tính, cắt đứt phản ứng chuỗi tạo gốc tự do. Đặc biệt các gốc tự do tạo ra do quá trình peroxit hoá lipid- những chất có khả năng gây ra hàng loạt các phản ứng hoá học bất bình thường, làm rối loạn quá trình trao đổi chất trong tế bào.
GTD sinh ra trong cơ thể do quá trình hô hấp tế bào, do tác nhân phóng xạ. Hô hấp tế bào sinh GTD ở nội bào, còn do tác dụng của tia xạ gốc tự do sinh ra ở cả nội và ngoại bào. Các tia xạ tác động bẻ gãy 1 phân tử thành 2 gốc tự do. Trong cơ thể nước (H2O) chiếm gần 80% nên chủ yếu phân tử nước bị phân ly:
Tia xạ
H2O -------> H. + OH.
Tia xạ
R1 - R2 ---------> R1. + R2.
H.O2HO2. H. + O2.
Ngoài ra gốc tự do hình thành do hiện tượng thực bào, do thiếu máu cục bộ và tưới máu lại, do tác nhân hoá học ngoại lai, ô nhiễm môi trường, do các stress, do tia tử ngoại, do phản ứng Fenton, do phản ứng oxy hoá lipid màng.
Bản thân cơ thể có hệ thống enzym chống GTD như men SOD (superoxyde Dimustase) phân huỷ các O2. ; có 2 đồng phân:
MnSOD ở mitochondrie chống gốc O2. do hô hấp TB; CuZn SOD ở bào tương, chống O2. lọt ra bào tương.
SOD
2O2. + 2H+ ---------> H2O2 + O2
Peskova và Goncharenko (1982) thấy E.coli bền vững hơn với phóng xạ khi hoạt tính SOD tăng lên. Chủng vi khuẩn nào có hoạt tính SOD cao thì kháng xạ tốt hơn.
Men Catalase, không phân huỷ được peroxit hữu cơ, phân huỷ H2O2 ở nồng độ cao >108 mol/l
Catalaza
2 H2O2 --------> 2H2O + O2
Men GSH-PO (Glutation Peroxydase) loại bỏ peroxit hữu cơ và vô cơ, dọn triệt để H2O2 ở nồng độ thấp <108 mol/l + các peroxyt ở màng. Có sự phối hợp của Vitamin E, Selen, Glutation.
Glutation peroxidase
ROOH + 2GSH -----------------> GSSG + ROH + H2O
GSH: Glutation dạng khử; GSSG: Glutation dạng oxy hoá; R là gốc hữu cơ hoặc là H.
Các nghiên cứu cho thấy glutation cần thiết để các chất nội sinh như serotonin phát huy tác dụng, Glutation không tham gia vào các quá trình ban đầu sau chiếu xạ, mà tham gia vào giai đoạn muộn hơn, ảnh hưởng đến đặc trưng diễn biến các quá trình tổn thương và hồi phục sau chiếu xạ.
Ngoài ra còn có các chất chống oxy hoá không enzym: nhóm poliphenol-ancol; nhóm các thiol, muối selen, nhóm chất chứa nhiều nối đôi liên hợp.
Nhóm OH phenol và ancol: Coenzym Q10, vitamin E bioflavonit, vitamin C. Các diphenol (đồng phân octo) có khả năng tạo phức Chelat với Fe2+ và Cu2+ làm mất khả năng xúc tác của 2 ion này để tạo phản ứng Fenton, một trong những nguồn gốc gây ra các gốc tự do độc hại.
Ubiquinone Q9 có tác dụng phục hồi tổn thương màng mitôchndrie do tác dụng của bức xạ ion hoá.
Vitamin E là chất chống oxy hoá vì nó ngăn cản quá trình oxy hoá các axit chưa no của màng tế bào.
Vitamin C đưa Vitamin E từ dạng oxy hoá về dạng khử.
Các hợp chất có chứa nhóm thiol: do có tính khử mạnh nên chúng có thể cùng vitamin C chuyển vitamin E từ dạng oxy hoá về dạng khử nhằm phục hồi chức năng dập tắt mạch peroxit hoá lipit do các gốc tự do độc hại sinh ra.
Graevski và Taraxenko (1972) thấy có sự phụ thuộc của độ nhạy cảm phóng xạ của cơ thể với hàm lượng SH. SH càng tăng cao càng có khả năng kháng xạ, ngược lại, SH giảm gây tăng độ nhạy cảm phóng xạ.
Nhóm chất có nhiều nối đôi liên hợp: beta-caroten là chất bẫy gốc tự do, chủ yếu là oxy đơn bội.
Ben-Amotz A., Yativ S. Sela M. (1998) theo dõi trên 709 chấu bè bị ảnh hưởng của thảm hoạ Chernobyl đã được đưa tới Israel 1990-1994, tất cả được kiểm tra xác định các triệu chứng lâm sàng, chia làm 3 nhóm: bị chiếu xạ <5Ci/m2; >5Ci/m2 và có liên quan. 57 bé trai và 42 bé gái được dùng thêm 40mg 9 cis và trans beta-caroten dạng viên nén trong 3 tháng. Kiểm tra các chỉ tiêu huyết thanh trước khi dùng, sau khi dùng 1 và 3 tháng. Kết quả cho thấy các sản phẩm oxy hoá lipid giảm, trong khi các chỉ tiêu về carotenoid, retinol hay alpha-tocopherol thay đổi không đáng kể. Các chỉ tiêu sinh hoá khác nằm trong giới hạn bình thường. Bằng phương pháp phân tích sắc ký lỏng cao áp với carotenoid trong máu thấy chủ yếu là oxycarotenoid, beta-carotene dạng trans, alpha-carotene, không thấy 9-cis beta-carotene. Từ đó có giả thiết rằng trẻ em bị chiếu xạ làm tăng oxy hoá lipid và beta-carotene có thể tác dụng như một chất chống oxy hoá lipid và như một chất BVPX.
Konopacka M., Widel M., Wolny J. (1998) cho biết, nếu cho động vật uống vitamin 5 ngày liên tục trước khi chiếu xạ hoặc uống ngay sau khi chiếu xạ liều 2Gy với liều 100-200mg/kg/ngày vitamin E và 3-12mg/kg/ngày beta-carotene có hiệu quả chống lại việc hình thành đa nhân (micronucleus) trong tế bào. Vitamin C với liều khác nhau có thể gây hiệu quả khác nhau: 400mg/kg/ngày tăng hiệu ứng của bức xạ, còn 50-100mg/kg/ngày có tác dụng giảm hình thành các hồng cầu đa nhân. In vitro các tác giả cho thấy sự có mặt của vitamin trong dung dịch nuôi cấy có ảnh hưởng tốt đến tốc độ hồi phục tổn thương DNA của bạch cầu.
Có thể chống GTD bằng giảm sinh GTD, tăng phản ứng phân huỷ gốc superoxyt bằng tăng tạo SOD, tăng tạo men GSH-PO (tăng bổ sung Selen), trung hoà GTD ở ngoại bào: tăng glutation, beta caroten, Flavonoid. Dùng các thuốc antioxydant.
Trong thiên nhiên có rất nhiều chất có khả năng chống oxy hoá, chống GTD, chúng nằm trong các loại thực phẩm, rau quả, dược liệu cây con thuốc. Thuốc BVPX gây phản ứng với các GTD trước khi các GTD tác động vào phân tử sống. Thuốc có thể khôi phục lại hoạt tính sinh học của các đại phân tử đã bị tổn thương. Chính vì vậy trong đánh giá khả năng chống oxy hoá của một chế phẩm, có thể đánh giá qua khả năng thuốc đó có hạn chế được tác dụng của tia bức xạ làm giảm hoạt tính enzym SOD hay không.
Pericova E.G., Goncharenko E.N. (1982) cho thấy SOD có tác dụng BVPX. Tiêm SOD cho chuột có thể bảo vệ được tế bào gốc tuỷ xương với hệ số giảm liều 2,1. Khi chiếu xạ làm hoạt tính SOD ở gan giảm khoảng 20%, SOD biến đổi ngay sau chiếu xạ 15 phút, giảm từ 1 giờ và giảm rõ nhất vào 4 giờ sau chiếu xạ (còn 70-75% hoạt tính ban đầu). Chính những sản phẩm peroxit lipid màng đã ức chế hoạt tính của SOD.
Nguyễn Liêm, Triệu Duy Điệt, Đỗ Văn Bình khi nghiên cứu tác dụng chống oxy hoá của một số cây thuốc Việt Nam đã tìm thấy 4 cây có tác dụng chống oxy hoá mạnh: lá đỏ ngọn, chè xanh, lá bụt mọc, vỏ cây xoan trà.
Malonic dialdehyd (MDA) là một radiotoxin đặc biệt, có hoạt tính hoá học cao, có phản ứng mạnh với các nhóm amin của bazơ nitơ trong ADN, khi tạo búi với ADN, sẽ làm đứt sự nhân đôi ADN, gây sai lạc nhiễm sắc thể và gây chết tế bào. Ngô Văn Thành nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm Panpsegin (PG-2) tới hàm lượng malonic dialdehyd trong các mô lách, ruột non, gan của chuột cống trắng bị chiếu xạ liều 7Gy thấy PG-2 liều 0,5g/kg có tác dụng giảm MDA, mạnh nhất ở lách: còn 60% so với chứng .
Mai Văn Điển cũng cho thấy flavonoid chiết xuất từ vỏ đậu xanh có thể giảm lượng MDA trong lách còn 69,94%, trong gan còn 75,23% trong ruột non 74,83% so với nhóm chứng.
Thuyết hiệu ứng oxy
Các thuốc BVPX gây thiếu oxy bằng cách:
Gây co mạch: adrenalin, noradrenalin, mexamin
Ngăn cản vận chuyển oxy bằng cách tạo MetHb (Amylnitrit, natri nitrit)
Ức chế chuỗi hô hấp tế bào (muối xyanua)
Ức chế trung khu hô hấp: Morphin, heroin...
Một số lớn thuốc BVPX tác dụng theo cơ chế gây thiếu oxy tổ chức. Chúng làm giảm quá trình vận chuyển oxy tới tế bào và giảm phân áp oxy trong nguyên sinh chất. Trạng thái đó làm tăng khả năng kháng xạ của tế bào và cơ thể. Qua thực nghiệm thấy rõ tuỷ xương ở chỗ thiếu oxy giảm số tế bào chết theo dạng phân bào, giảm số tế bào có sai lệch nhiễm sắc thể.
Các công trình nghiên cứu trên động vật thực nghiệm nhằm tìm hiểu và làm sáng tỏ cơ chế tác dụng của thuốc BVPX. Các tác giả nhận thấy hiệu ứng BVPX được thể hiện thông qua các thụ cảm thể tế bào như a- adrenoreceptor, D-serotonin, H1- histamin. Một số chất có tác dụng BVPX như indraline đã gây thiếu oxy trong mô, giảm tiêu thụ oxy 10% sau 2 phút trên chuột được tiêm màng bụng 0,01ml/g thể trọng 5 phút trước khi chiếu xạ, có thể giảm 30% sau 40 phút, gây giảm dòng máu tới gan, tác dụng giống mercamin. Hiệu ứng BV giảm khi dùng chất chẹn anpha như aminasine và theophyline. Các chất BVPX tuy có tác dụng giảm tiêu thụ oxy nhưng lại tăng sản phẩm trao đổi nhiệt.
Vai trò của oxy làm tăng tác dụng của tia phóng xạ được nghiên cứu khá nhiều. Gọi N là tổng số tế bào nuôi cấy, Ns là số tế bào sống sót sau chiếu xạ liều D, ta có biểu thức: Ns/N = exp (-Ks - Kox1 - Kox2)D
Ks ứng với điều kiện không có oxy. Kox1 là phần tác dụng tăng cường khi có oxy do tạo gốc tự do và không còn tác dụng khi ngừng chiếu xạ. Kox2 là tác dụng tăng cường khi có oxy nhưng đã ngừng chiếu xạ. Phần này do các gốc oxy tác dụng với các phân tử xung quanh tạo gốc thứ cấp.
Như vậy để bảo vệ phóng xạ, việc giảm Ks rất khó, có thể dùng các chất chống oxy hoá có nguồn gốc nội sinh cũng như ngoại sinh để giảm Kox1 và Kox2. Ngược lại, khi nghiên cứu điều trị ung thư bằng tia phóng xạ thì phải tăng Kox1 và Kox2, tăng mức độ cảm xạ của tế bào khối u. Tế bào u hô hấp yếm khí, pO2 trong tế bào u tăng dẫn tới Kox1 và Kox2 trong tế bào u tăng. Đó là cơ sở để điều trị ung thư bằng tia xạ. Tuy nhiên, dù liều chiếu cao vẫn còn tế bào u sống sót, đó là những tế bào thiếu oxy hay tế bào kháng xạ. Khi đó phải dùng những chất có tác dụng như oxy và tập trung nhiều ở tế bào u làm tăng tính nhạy cảm phóng xạ của chúng. Các chất này được gọi là thuốc gây cảm xạ kiểu oxy (oxygen - likeradiosensitizing drugs).
Saskov và Anaskin (1971) đã nhận thấy Serotonin, Mexamin, AET, Cystamin có tác dụng BVPX đều có cơ chế dược lý gần giống nhau làm co mạch, giảm nồng độ oxy.
Svedlov A.G. nhận thấy Mexamin gây giảm pO2 rất nhanh, với liều 25, 50mg/kg, sau 12-15 phút giảm 50-60%, duy trì ở mức thấp trong khoảng thời gian 60-90 phút.
Cho chuột dùng caffeine (1,3,7-trimethylxanthine) thành phần chủ yếu của cà phê, liều 80 hoặc 100mg/kg, 60 phút trước khi chiếu toàn thân 7.5Gy có 70% và 63% chuột sống sót, trong khi nhóm CX chết 100%. Tiền điều trị với liều thấp 50mg/kg không có tác dụng chống PX. Có hiệu ứng BVPX khi liều đạt 80mg/kg. Liều 80mg/kg dùng 3 phút sau chiếu xạ cũng không có tác dụng. Chứng tỏ caffeine là chất có khả năng quét GTD, chống oxy hoá, là chất BVPX, chống lại hiệu ứng oxy của tổn thương PX trong tế bào. Kabakova cũng nhận thấy, sau chiếu xạ, nếu nuôi cấy tế bào trong dung dịch có thêm 0,1; 0,2; 0,3; 0,4% caffeine thì nồng độ caffeine càng tăng, số tế bào sống càng giảm.
Thuyết oxy hoá - khử
Vladimirov (1982) [63,65] cho biết nếu điện thế oxy hoá khử giảm trong thời gian dài thì hiệu lực tác dụng của thuốc cũng tồn tại trong thời gian dài. Dưới tác dụng của bức xạ ion hoá, các gốc tự do H. , OH., O2. tác dụng lên màng tế bào, phá huỷ cấu trúc màng, thay đổi tính thấm của màng, và do đó thay đổi điện thế màng, phá huỷ quá trình vận chuyển chất và ion qua màng, gia tăng sự oxy hoá, làm tăng điện thế oxy hoá khử. Khi sử dụng chất BVPX có khả năng trung hoà điện tích, ngăn chặn phản ứng sinh gốc tự do mới, dọn sạch các sản phẩm phân huỷ phóng xạ, phục hồi cấu trúc màng và tính phân cực của màng, nghĩa là thuốc BVPX có tác dụng giảm điện thế oxy hoá khử , ngăn chặn sự tấn công của GTD.
Một số chất chống oxy hoá có nguồn gốc từ cây cỏ Tocopherol vitamin E, vitamin C, caroten vitamin A; bioflavonoid tham gia tích cực trong quá trình vận chuyển các điện tử, giảm tính thấm, làm bền thành mạch.
Iarmonenko và CS. (1984) nhận thấy nhiều chất BVPX có đặc điểm chung là đều có khả năng chống oxy hoá, tuy nhiên không phải chất chống oxy hoá nào cũng có tác dụng BVPX. Ngược lại, có những chất không gây biến đổi rõ sự cân bằng điện thế oxy hoá khử nhưng tạo được những chất nội sinh, tăng sức đề kháng chống phóng xạ, đó là những chất bảo vệ nội sinh .
Thuyết "sốc sinh hoá"
Bacq và Alecxander [32] đưa ra thuyết này cho rằng: các chất bảo vệ hoá học, nhất là những chất có lưu huỳnh, có khả năng làm biến đổi sâu sắc các phản ứng hoá sinh dẫn tới thay đổi các quá trình sinh lý trong tế bào giai đoạn trước chiếu xạ theo hướng tăng khả năng kháng xạ của cơ thể. "Sốc sinh hoá" có đặc trưng là ức chế các quá trình trao đổi hydratcacbon, thay đổi tính nhạy cảm phóng xạ của cơ thể theo hướng bền vững với phóng xạ hơn. Các tác giả nhận thấy chỉ vài phút sau khi các chất BVPX được đưa vào cơ thể, chúng đã liên kết với protein và số lượng nhóm thiol phi protein tăng dần nhờ tích tụ các sulfhydryl nội sinh.
Eidus (1977) cho rằng "sốc hóa sinh" chỉ là một trường hợp riêng của phản ứng chung không đặc hiệu của tế bào đối với các tác nhân bên ngoài. Khi chất BVPX vào cơ thể sẽ làm cho sự vận chuyển chất qua màng bị thay đổi, dẫn tới biến đổi gradien nồng độ các chất hữu cơ giữa bên trong và bên ngoài màng. Các chất hữu cơ có phân tử lượng thấp ở trong tế bào hoạt tính sinh học bị yếu đi. Cuối cùng xuất hiện trạng thái "cận hoại tử" và trạng thái này sẽ bình phục nếu tổn thương do tia phóng xạ không nặng.
Thuyết quyết định thể sinh hoá
Zexchianikov (1968) cho rằng một trong những cơ chế chống lại các yếu tố gây tổn thương là quá trình hồi phục ADN, bảo vệ gen tránh được các yếu tố gây đột biến. Tính bền vững ở mức độ cơ thể thông qua sự hồi phục ADN được xác định bởi cơ chế đặc hiệu và không đặc hiệu của hệ miễn dịch. Tế bào máu nguyên thuỷ được xem như là yếu tố quyết định sự sống sót của động vật khi bị chiếu xạ (quyết định thể sinh hoá). Để thực hiện chức năng tạo máu sau chiếu xạ, vấn đề quan trọng không chỉ là sự sống sót của tế bào tạo máu mà còn là chức năng của lympho baò, đại thực bào tham gia vào sự tác động tương hỗ giữa các tế bào nhờ tiết hỗn hợp các yếu tố nội tiết chủ yếu điều khiển quá trình tạo máu như interleukin -1, prostaglandin E, g -interferon... Khi đưa chất BVPX vào cơ thể nó tác động tới thành phần sinh hoá của tế bào, tăng cường tính kháng xạ của cơ thể.
Thuyết tạo phức chất với phân tử sinh học dễ bị tổn thương
Có loại chất BVPX không "bắt" gốc tự do nhưng lại có khả năng tham gia vào phản ứng trực tiếp tạo phức với các đại phân tử sinh học. Như vậy chúng sẽ bảo vệ được các đại phân tử khỏi sự tấn công của các gốc tự do, các peroxit và các sản phẩm độc hình thành do chiếu xạ. Các hợp chất có chứa lưu huỳnh khi đưa vào cơ thể sẽ kết hợp với đại phân tử sinh học tạo các liên kết disulfit (S-S), nhờ đó khi chiếu xạ, năng lượng bức xạ chủ yếu tập trung vào liên kết tạm thời này, phá vỡ liên kết và giải phóng thiol. Các đại phân tử ít bị tổn thương hơn.
Thuyết Sulfhydryl
Các chất thiol đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sống của tế bào. Thiol góp phần đảm bảo tính thấm của màng nội bào và là một trong những yếu tố cần cho tạo cấu trúc bậc ba của protein. Thiol là chất chống oxy hoá mạnh nên giảm được các quá trình oxy hoá nguyên phát của tổn thương phóng xạ. Khi bị tổn thương phóng xạ, trong cơ thể các chất chứa nhóm thiol là cấu trúc duy nhất bị tổn thương làm cho men mất hoạt tính và những cấu trúc nội bào có liên quan tới thiol cũng bị tổn thương. Khi có chất BVPX có chứa lưu huỳnh (S) nó đóng vai trò phân giải gốc tự do hay độc tố phóng xạ và bổ sung những axid amin không thay thế, tham gia vào quá trình tổng hợp enzym, hormon... nâng cao tính chống phóng xạ của cơ thể. Thuyết này chưa lý giải được vì sao nhiều chất trong phân tử có chứa thiol song lại không có tác dụng BVPX.
Simonhenkova và Sverdlov (1971) cho biết Mexamin, Cystaphos có tác dụng tăng hàm lượng nhóm -SH trong bạch cầu ở lách chuột, hạch lympho và cho rằng cơ chế bào vệ của thuốc có liên quan đến tăng -SH.
Nhiều ý kiến lại cho rằng vai trò BVPX không thuộc về các thiol đưa từ ngoài vào mà chính là các thiol nội sinh. Chỉ có các thiol nội sinh loại SH phi protein mới có khả năng tăng đề kháng chống phóng xạ cho cơ thể...
Thuyết "phông nội sinh"
Chất bảo vệ nội sinh là một tập hợp gồm nhiều chất trong đó có thiol phi protein, serotonin, histamin, dopamin, adrenalin, noradrenalin, đồng thời cũng có những chất khác có tác dụng ngược lại: tăng tổn thương PX của cơ thể. Một thuốc BVPX muốn đạt được tác dụng phải làm tăng được các chất BVPX nội sinh, giảm hoạt tính các chất cảm xạ (sản phẩm oxy hoá của các acid béo không no). Các chất BVPX như AET, cystaphos, cystamin... đều có tác dụng tăng hàm lượng serotonin ở ruột non, dạ dày và lách. Các chất BVPX tác dụng hoạt hoá men, tăng cường hình thành serotonin.
Qua nghiên cứu Goncharenko nhận thấy ở những động vật có sức đề kháng chống phóng xạ tốt thì hàm lượng serotonin, histamin đều cao hơn nhiều so với động vật không kháng xạ. Loài vật nào có độ mẫn cảm cao với phóng xạ thì trong cơ thể có nhiều chất tăng tổn thương phóng xạ.
Một số tác giả lại chú ý đến hệ GMP vòng, đó là hệ đối kháng với AMP vòng trong nhiều quá trình của hoạt động tế bào, nhất là quá trình tổng hợp ADN. Vladimirov cho rằng chất BVPX phong bế men guanylatcyclaza, ảnh hưởng đến hệ GMP vòng và ảnh hưởng tới sự kháng xạ của tế bào. Tuy vậy luận điểm này chưa được chứng minh đầy đủ.
Thuyết tác động trên hệ APUD
APUD (Amine Precursor Uptake and Decarboxylation) là một hệ thống tế bào gồm hơn 50 loại khác nhau ở rải rác khắp cơ thể. Các tế bào của hệ APUD tiết ra nhiều chất thuộc loại nội tiết tố và chất dẫn truyền thần kinh. Đáng chú ý là các chất serotonin, dopamin, catecholamin...
Hệ APUD tạo nên một nền kháng xạ nội sinh. Vì ở rải rác khắp nơi, nên có khả năng đáp ứng nhanh chóng, sản sinh kịp thời các nội tiết tố, các amin quan trọng để chống lại tác hại của phóng xạ. Chất có tác dụng BVPX là chất có khả năng kích thích hệ APUD, tăng cường hoạt động của hệ APUD.
Khi chuột bị chiếu xạ hàm lượng serotonin trong lách giảm ngay giai đoạn đầu tiên sau chiếu xạ (2-20 phút), giảm mạnh nhất vào thời điểm 1-3 giờ, nguyên nhân do giảm tiết từ ruột non và từ lách. Dưới tác động của các chất BVPX như Cystein, Mexamin đã có tác dụng tăng cường sự huy động serotonin. Các amin ở dạng kết hợp không hoạt động, chúng có thể tham gia vào phản ứng bảo vệ khi được chuyển thành dạng tự do. Chiếu xạ đã ngăn cản quá trình này. Còn các chất BVPX như Cystein, Mexamin đã làm tăng tích luỹ serotonin ở lách lên 1300-2400ng/g, tăng tính kháng xạ của cơ quan này.
Như vậy, tồn tại rất nhiều thuyết khác nhau về cơ chế tác dụng của thuốc BVPX, mỗi thuyết đều mới giải thích được một phần, chưa có thuyết nào giải thích đầy đủ cơ chế tác dụng của thuốc BVPX. Việc nghiên cứu cơ chế tác dụng của thuốc còn khó khăn, cần được tiếp tục.
THUỐC THẢI XẠ DO NHIỄM XẠ TRONG
Động học của chất PX khi vào cơ thể:
Chất PX có thể thâm nhập vào cơ thể qua da, hô hấp và qua đường tiêu hoá. Khi vào trong cơ thể, nói chung chúng trải qua những giai đoạn sau:
Hấp thu: là giai đoạn từ khi chất PX vào qua các con đường trên đến khi chúng vào tới dịch lỏng ngoại bào.Chất PX có thể khuếch tán khắp cơ thể lúc đó gọi là nhiễm xạ hệ thống và cơ thể có thể hấp thu nhiều và nhanh (iôt), có thể hấp thu ít và chậm, kéo dài hàng năm (oxyt plutoni).
Tích đọng: sau khi hấp thu, chất PX có thể tích đọng ở một số bộ phận (iôt ở tuyến giáp, P-32, Radium ở xương...)
Tồn lưu: Khi đã vào trong cơ thể, dù tích đọng ở bộ phận nào, chất PX cũng bị tác động của các quy luật vật lý và sinh học. Chất PX giảm dần theo thời gian do bán thải vật lý và sinh học. Phần còn lại ở một thời điểm nhất định gọi là tồn lưu.
Bài tiết: qua nước tiểu và phân (không hapá thu và đã qua hấp thu).
Biện pháp phòng ngừa cơ bản tổn thương PX do nhiễm xạ trong là phải rút ngắn thời gian tồn tại chất PX trong cơ thể. Để đạt điều đó cần sử dụng các thuốc phong bế sự hấp thu và làm tăng thải chất PX ra khỏi đường tiêu hoá, hệ hô hấp và vị trí chất PX tích tụ lại.
Phong bế sự hấp thu:
Đưa vào đường tiêu hoá các chất làm kết dính chất PX, biến chúng thành những chất mới không hoà tan, không qua được nhung mao, không thâm nhapạ vào máu mà chỉ qua đường tiêu hoá rồi thải theo phân. Chúng chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng sớm: dùng trước khi bị nhiễm xạ trong (dự phòng) hay dùng ngay sau khi bị nhiễm xạ trong (trong 15 phút đầu có hiệu lực tốt, sau 30 phút hiệu lực đã giảm và sau 2 giờ hầu như không còn ý nghĩa.
Thuốc tăng thải chất PX ra khỏi đường tiêu hoá:
Khi chất PX thâm nhập vào đường tiêu hoá đầu tiên phải ngăn ngừa chúng hấp thu vào máu và tích tụ ở các tổ chức, cơ quan. Do đó cần phải cho BN uống chất hấp phụ được coi như là đặc hiệu (antidos) đối với chất PX. Chất hấp phụ không phải là đa năng đối với các chất PX mà chỉ hấp phụ một số chất riêng biệt hoặc một nhóm chất PX nhất định.
Khi chất PX là Stronti và Bari nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá, cần dùng các chất hấp phụ như barisulphat, polysurmin, anginat canxi. Nếu là I-131 thì dùng iôt có cấu trúc ổn định, còn nếu là xeri thì dùng pherosin, bermiculit.
Một số chất hấp phụ phổ biến như than hoạt, cao lanh thực tế ít có hiệu quả hấp phụ chất PX.
Để tăng thải chất PX ra khỏi cơ thể có hiệu quả sử dụng các chất trao đổi ion. Chất ở trạng thái cation (Sr-90, Ba-140, Pu-210) hoặc anio (Mo-99, U-238) trao đổi với ion tương ứng làm giảm 1,5-2 lần lượng PX hấp thu vào máu.
Đánh giá thuốc bằng cách đo các chất thải và đo tồn đọng. Đo tồn đọng phải dùng đến phương pháp đo xạ toàn thân.
Tổng quát về đề phòng tổn thương do nhiễm xạ trong như sau:
Phòng chống tổn thương da do PX:
Biện pháp có hiệu quả nhất khi bị bụi xạ bám vào da là xử lý về sinh. Phải tiến hành càng sớm càng tốt ngay sau khi bị nhiễm xạ. Rửa kỹ bằng nước và xà phòng.
Sản phẩm phân hạch loại hoà tan khi vũ khí hạt nhân nổ trên mặt nước hay dưới nước loại khỏi da rất khó, cần phải sử dụng axit chlohydric 1-3% hoặc xitrat natri. Làm sạch da bằng giẻ, bàn chải... ít có hiệu quả.
Trong điều kiện chiến đấu có thể bụi phóng xạ rơi vào vết thương, vết bỏng. Chất PX dễ hoà tan ngấm vào máu nhanh chóng, lượng hấp thụ có thể đạt tới vài chục % số lượng chất PX rơi vào vết thương. Sự hấp thu chất PX qua bề mặt da bị bỏng độ I-II cao hơn 2-20 lần so với da lành.
Để giảm hấp thu chất PX từ vết thương, vết bỏng vào máu, sử dụng các chất hapá phụ khác nhau. Bông băng bình thường cũng có khả năng hấp phụ tốt chất PX (tới 60%). Xử lý ngoại khoa là tốt nhất, khi đó đến 90% bụi phóng xạ được loại ra.
Phương pháp xử lý ngoại khoa vết thương, vết bỏng có nhiễm bụi xạ được tiến hành bình thường nhưng trước đó phải làm sạch phần da lành quanh vết thương khỏi bụi PX. Ngoài ra còn chỉ định rửa vết thương, vết bỏng nhiều lần bằng nước đun sôi để nguội, nước muối sinh lý, dung dịch loãng thuốc sát trùng.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh