Ung thư phổi hiện nay là loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới, và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư. Mỗi năm có trên một triệu người mắc ung thư phổi. Ở Mỹ, một số nước Tây Âu, và Australia, tỷ lệ mắc ung thư phổi đang có xu hướng giảm ở giới nam, trong khi bệnh đang tiếp tục tăng lên ở nữ giới. Ở Nam và Đông Âu, ung thư phổi đang tăng nhanh, và mô hình tương tự cũng được thấy ở những nước đông dân cư như Trung Quốc, Indonesia, và Nhật. Những vùng khác trên thế giới, như là Trung Đông, Châu Phi và Nam Mỹ cũng thể hiện một bức tranh ảm đạm như vậy. Mặc dù đã có những cải thiện khiêm tốn trong điều trị, tỷ lệ sống 5 năm của bệnh này vẫn còn dưới 15%. Loại uung thư phổi phổ biến là ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) và ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC). Đánh giá đúng giai đoạn bệnh là yếu tố then chốt cho việc lựa chọn chiến lược điều trị thích hợp cho ung thư phổi. Trong ung thư phổi không tế bào nhỏ, phẫu thuật cắt u đem lại cơ hội tốt nhất cho việc chữa bệnh. Tuy nhiên phẫu thuật triệt căn chỉ thực hiện được ở giai đoạn sớm (không có di căn hạch trung thất đối bên, không có di căn xa). Bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ được điều trị hóa chất và xạ trị.
Chẩn đoán ung thư phổi dựa vào lâm sàng và cận lâm sàng. Trong đó các biện pháp chẩn đoán hình ảnh có vai trò quan trọng, chẩn đoán mô bệnh học có vai trò tiêu chuẩn vàng trong xác định bệnh ung thư. Từ những năm 1980, sự phát triển của kỹ thuật ghi hình trong y học hạt nhân đã tạo nên một bước tiến vượt bậc trong chẩn đoán, theo dõi điều trị ung thư trong đó có ung thư phổi.
GHI HÌNH SỬ DỤNG DCPX TRONG UNG THƯ
Ghi hình bằng y học hạt nhân là phương pháp không xấm lấn, cung cấp những thông tin về chức năng ở mức phân tử và tế bào, góp phần vào việc phát hiện tình trạng sức khỏe bằng việc đo lường sự hấp thu và chuyển hóa của chất đánh dấu phóng xạ đặc hiệu trong mô đích. Tiến trình này bao gồm dòng máu chảy qua mô và chuyển hóa, tương tác protein-protein, sự biểu lộ của các receptor của tế bào ở tế bào bình thường và bất thường, tương tác tế bào-tế bào, hoạt động của các tín hiệu dẫn truyền thần kinh, sự vận chuyển bởi tế bào, xâm lấn mô và chết tế bào theo chương trình. Bằng việc cung cấp thông tin của những quá trình này, ghi hình y học hạt nhân đưa ra hàng loạt những công cụ cho việc thăm dò tình trạng của chức năng mô bình thường và bệnh lý cũng như đáp ứng với điều trị.
Ghi hình trong y học hạt nhân dựa trên nguyên lý đánh dấu phóng xạ. Một dược chất phóng xạ được tiêm vào cơ quan sống và được theo dõi bởi hệ thống đầu dò. Bằng việc theo dõi hoạt tính phóng xạ từ bên ngoài, sự phân bố của dược chất có thể được đo lường theo thời gian. Đồng vị phóng xạ phát tia gamma với năng lượng đã được xác định rõ như là technetium 99m (phát một photon gamma đơn với một năng lượng 140 keV) thường được sử dụng như là chất đánh dấu phóng xạ cho ghi hình planar và SPECT. Với PET, hai photon gamma có mức năng lượng 511 keV, mỗi photon sinh ra một phân rã β+ phát. Sự đa dạng về các đầu dò cho tia gamma đã được phát triển hơn vài thập kỷ gần đây đã cho phép đo lường chính xác và nhạy sự phân bố hoạt tính phóng xạ. Một dược chất phóng xạ hoặc có thể chỉ là đồng vị phóng xạ (Iodine 131) hoặc là một đồng vị phóng xạ được gắn với một chất mang (thuốc, protein, hoặc peptid). Hầu hết các dược chất phóng xạ dựa trên sự khác nhau về sinh lý bệnh hoặc sinh hóa giữa tế bào ung thư và tế bào bình thường để cung cấp những tỷ số nền thích hợp cho ghi hình. Đặc tính của sự biến đổi trong ung thư bao gồm:
Tăng trưởng do thiếu cơ chế kiểm soát phát triển bình thường (dẫn đến tăng tổng hợp protein).
Tăng quá trình phân bào liên quan đến tăng tốc độ phát triển, nó dẫn đến sự tích lũy các tế bào ở pha S và tăng tổng hợp nucleosid.
Sự lan tràn ung thư tăng lên từ sự tân sinh mạch một cách hỗn độn.
Sự phát triển của hiện tượng thiếu oxy ở trung tâm liên quan đến những mạch máu tân tạo bất thường.
Sự bất thường của mật độ các receptor và chức năng receptor
Chuyển hóa Glucose thay đổi liên quan đến sự tăng biểu lộ các chất vận chuyển glucose.
Sự biểu hiện của các kháng thể bất thường hoặc đã biến đổi.
Các chức năng vận chuyển qua màng bất thường hoặc đã biến đổi.
Sự tăng sử dụng của các chất tiền chuyển hóa cho việc tổng hợp protein, norepinephrin, hoặc DNA.
Sự thay đổi của cơ chế chuyển hóa tế bào liên quan đến sự biến đổi của khối u đã dẫn đến sự phát triển của dược chất phóng xạ, nó có thể là mục tiêu đặc hiệu hoặc không đặc hiệu với những bất thường liên quan tới ung thư.
Phân loại dược chất phóng xạ trong YHHN ung thư:
Chất nền chuyển hóa (I131, I123, Ga67, FDG …)
Vận chuyển qua màng (MIBI, Tetrafosmin, Tl201…)
Chất gắn receptor (Depreotide, Lantreotide, Octreotide,…)
Những tiền chất (MIBG,…)
Những kháng thể đơn dòng (anti-CD66 mAb,…)
PET, SPECT TRONG UNG THƯ PHỔI
Kỹ thuật PET (Positron Emission Tomography) – cắt lớp dựa trên sự phát Positron, là một phương pháp ghi hình y học hạt nhân, thông qua việc đo chính xác các chức năng của mô mềm tại vùng không can thiệp. Các đồng vị phóng xạ có bức xạ điện tử dương là 18F, 11C, hoặc 15O là các nguyên tố phóng xạ tồn tại ở trạng thái khác, xảy ra một cách tự nhiên trong các phân tử ở các cơ quan trong cơ thể. Vì thế chúng có thể kết hợp mà không làm thay đổi các đặc tính hóa học và các đặc tính sinh học của các phân tử đã được đánh dầu bằng các dồng vị phóng xạ này. Dấu hiệu thể thiện của PET trong ung bướu chủ yếu dựa vào Glucose thay thế, đó là 18F (Fluoro- 2-deoxy-D-Glucose) (FDG), dựa vào đặc tính là mô ung thư có chuyển hóa Glucose cao hơn hầu hết các mô khác. Tuy nhiên sự tích lũy FDG không chỉ đặc hiệu ở khối u mà có thể có ở tổ chức viêm, do đó về mặt lâm sàng những phát hiện (+) cần phải được làm rõ thêm.
Sau khi tiêm vào tĩnh mạch, FDG nhanh chóng rời khỏi máu và chỉ còn gắn vào tế bào u và cho phép ghi hình sau đó 60 phút. Sự phân bố về mặt sinh học của nó cho phép phát hiện rất nhậy ở hầu hết các cơ quan ngoại trừ não và bàng quang. Sự thiếu hụt các chi tiết về mặt giải phẫu là sự giảm thấp bất thường của hoạt độ nền. Do đó việc định vị các điểm tập trung bất thường đòi hỏi phải so sánh với giải phẫu trên CT
Trong những năm vừa qua, FDG - PET đã được nghiên cứu một cách rộng rãi trong việc đánh giá những khối u không rõ bản chất của phổi. Trong một hậu phân tích 1471 các tổn thương của phổi thể trung tâm với các kích thước bất kỳ, độ nhậy trung bình phát hiện tổn thương ác tính là 97% (83 – 100%). Để phát hiện được bằng PET, đòi hỏi phải có một số lượng đủ lớn các tế bào ác tính đang hoạt động chuyển hóa. Do đó, các phát hiện âm tính giả xảy ra ở những khối u có hoạt động chuyển hóa thấp, các khối u carcinoid, ung thư tế bào biểu mô tiểu phế quản phế nang, hoặc ở các tổn thương cso kích thước < 1 cm. Trong hậu phân tích này, chỉ có 8 tổn thương có kích thước < 1cm được công bố với độ nhậy chỉ có 50%. Vì vậy, những giá trị dùng để chẩn đoán mà (-) của FDG-PET ở những tổn thương nhỏ này cần được làm rõ thêm. Hấp thu FDG không phải là chỉ đặc hiệu riêng với các tổn thương ác tính. Các dương tính giả có thể xảy ra trong các tình trạng nhiễm trùng như viêm phổi do vi khuẩn, áp-xe sinh mủ hoặc bệnh nấm phổi Aspergillus, các bệnh u hạt như bệnh sarcanoid đang hoạt động, bệnh lao, bệnh nấm Histoplasma, bệnh nấm Coccidioides immitis, bệnh u hạt Wegener, các khối u dạng thấp khớp và bệnh bụi phổi. Điều này là do FDG gắn kết ở các bạch cầu hạt đã hoạt hóa và/hoặc các đại thực bào. Trong một hậu phân tích, độ đặc hiệu trung bình của việc phát hiện ra tổn thương ác tính là 78% (50-100%). Người ta thống nhất chung là “không hấp thụ FDG là tiêu chuẩn đáng tin cậy nhất để loại trừ tổn thương ác tính và hấp thụ mạnh là nghi ngờ tổn thương ác tính”. Hấp thu FDG được phân loại thế nào là yếu, thế nào là trung bình vẫn chưa rõ ràng. Đặc biệt, trong các tình huống như vậy, về mặt lâm sàng kết quả điều trị sẽ phụ thuộc vào kết quả của các dấu hiệu nguy cơ kết hợp, mà các dấu hiệu nguy cơ kết hợp đó dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng cũng như các test chẩn đoán hình ảnh khác.
Việc đánh giá theo T (u nguyên phát) thường dựa trên phim CT lồng ngực, đôi khi còn được bổ sung thêm bằng chụp cộng hưởng từ (MRI). PET do sự phân dải của nó bị hạn chế về mặt không gian, hiếm khi nó cho biết thêm thông tin, ngoại trừ những tổn thương liên quan với màng phổi.
Đánh giá hệ thống N (hạch vùng) theo CT là một phương pháp chuẩn. Tuy nhiên, rất nhiều người đồng ý rằng CT không thể thay thế được nội soi trung thất. Độ nhậy trung bình, độ đặc hiệu trung bình của CT tương ứng là 57% và 82%. Các nghiên cứu về độ chính xác của FDG-PET đối với phân giai đoạn của hạch trung thất trong NSCLC có khả năng phẫu thuật được đã đưa ra bằng chứng đầy thuyết phục rằng kỹ thuật này ưu việt hơn CT trong việc đánh giá sự có mặt (N2-N3) hoặc vắng mặt (N0-N1) của hạch ác tính trong trung thất, cả hai khi được công bố trên cơ sở từng bệnh nhân cũng như là trên cơ sở từng mức độ của hạch. Trên cơ sở từng bệnh nhân, độ nhậy trung bình của PET là 89%, độ đặc hiệu là 92%, và độ chính xác là 90%. Đối với CT, các kết quả độ nhậy là 65%, độ đặc hiệu là 80% và độ chính xác là 75%.
Một thiếu sót của ghi hình PET là sự phân giải về mặt không gian hạn chế của nó, dẫn đến kết quả là khó xác định cấu trúc giải phẫu. Do đó, PET có thể gặp khó khăn cho việc phân biệt giữa hạch rốn phổi và hạch trung thất, hoặc phân biệt giữa một u nguyên phát ở trung tâm và một hạch trung thất. Kết hợp ghi hình PET và CT có khả năng trở thành một phương pháp ghi hình chuẩn mới cho việc đánh giá giai đoạn và đánh giá lại giai đoạn của bệnh nhân ung thư phổi. PET/CT tốt hơn PET đơn thuần, CT đơn thuần, và hình ảnh tương ứng là sự kết hợp của cả hai kỹ thuật riêng biệt. Đặc biệt, nó cải thiện việc xác định giai đoạn T3, T4 và mô tả hình ảnh khối u mà có xẹp phổi kèm theo.
Tác giả Gupta và cộng sự nghiên cứu trên 61 bệnh nhân trong việc phân biệt giữa u phổi và tổn thương lành tính, PET/CT cho độ nhạy là 93% và độ đặc hiệu là 88%. Vansteenkiste và cộng sự so sánh giữa CT và PET/CT trong việc phát hiện hạch giai đoạn N2/N3 cho kết quả độ nhậy, độ đặc hiệu và độ chính xác của CT là 75%, 63% và 68% ; của PET/CT là 93%, 95% và 94%. Theo Chang CY và cộng sự PET đơn thuần cho kết quả phân loại khối u chính xác 85%, và PET/CT làm tăng độ chính xác lên 89% với độ nhậy và độ đặc hiệu là 88% và 89%.
VAI TRÒ XẠ HÌNH SPECT TC 99M-MIBI TRONG UNG THƯ PHỔI
Mặc dù chẩn đoán bằng y học hạt nhân sử dụng PET hoặc PET-CT đạt được những thành tựu quan trọng trong thập kỷ vừa qua, nhưng có khoảng 70% tất cả các chẩn đoán đã thực hiện được sử dụng dược chất phóng xạ gắn Techetium 99m. 99mTc- MIBI được sử dụng đầu tiên trong xạ hình tưới máu cơ tim. Giá trị của xạ hình dùng 99mTc- MIBI trong ung thư phổi được phát hiện tình cờ. Vào những năm 1980 bắt đầu có những báo cáo đề cập đến sự tập trung 99mTc- MIBI trong một số loại u đặc, trong đó có ung thư phổi. Từ đó đến nay đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Cơ chế của 99mTc- MIBI tập trung cao vào khối u cũng giống như 99mTc-Tetrofosmin, đó là sự vận chuyển khuyếch tán qua màng tế bào thông qua lực hút tĩnh điện giữa các phân tử 99mTc-MIBI ưa mỡ mang điện tích dương với điện tích âm của các ty lạp thể và sự chuyển hóa của chúng ở trong tế bào. Sau khi tiêm tĩnh mạch, khoảng 90% 99mTc- MIBI được gắn vào các ty lạp thể của tế bào. Thêm vào đó, do tổ chức ung thư thường được tăng tưới máu, tăng mật độ tế bào và số lượng ty lạp thể vao hơn rất nhiều so với u lành và tổ chức xung quanh đã tạo nên sự khác biệt rõ rệt về mật độ phân bố phóng xạ tại các khối u ác tính và các hạch di căn.
Sau khi tiêm 99mTc- MIBI hình ảnh được thu nhận qua hệ thống máy gamma camera và xử lý qua hệ thống máy tính với phần mềm chuyên dụng. Chụp xạ hình SPECT với 99mTc- MIBI cho thấy hình ảnh sinh lý chuyển hóa của tổ chức ung thư, vì vậy phương pháp này có khả năng chẩn đoán, định giai đoạn bệnh được chính xác hơn khi kết hợp với CT.
Mặc dù FDG-PET có nhiều tính ưu việt nhưng vẫn còn có một số hạn chế. Thứ nhất, có nhiều tổn thương viêm (lao, sarcoidosis, viêm giả u, nhiễm nấm, viêm phổi và apxe) đều bắt giữ FDG. Thứ hai, ung thư biểu mô tuyến và ung thư phổi phế quản phế nang có thể không nhìn thấy được trên FDG-PET. Thứ ba, FDG-PET vẫn còn là một xét nghiệm phức tạp và đắt tiền, nó được thực hiện với chất đánh dấu và thiết bị ghi hình mà chỉ sẵn có ở một số ít vùng. Bởi vậy, nhiều đồng vị phóng xạ như là 67Ga, 201Tl, và Tc-99m tetrofosmin đã được sử dụng trong ung thư phổi để đánh giá giai đoạn, theo dõi và đánh giá đáp ứng với điều trị. Thêm vào đó, những kết quả đáng khích lệ đã đạt được với chụp cắt lớp đơn photon (SPECT) ngực sử dụng Technitium-99m hexaki-2-methoxyisobutyl isonitrile (99mTc-MIBI). 99mTc-MIBI là một cation ưa mỡ được sử dụng rộng rãi như là một chất đánh dấu trong ghi hình tưới máu cơ tim nhưng sự hữu ích của nó đã được chứng minh đặc biệt là trong khối u vùng ngực, như là vú và ung thư phổi, cả trong chẩn đoán u nguyên phát và chẩn đoán giai đoạn cũng như là theo dõi điều trị, cũng như góp phần dự báo đáp ứng với hóa trị ở những bệnh nhân không phẫu thuật. Nghiên cứu của Mario Santini và cộng sự trên 79 bệnh nhân với tổn thương phổi đơn độc trên CT, được chụp SPECT với 99mTc-MIBI trước khi làm các thủ thuật chẩn đoán xâm lấn, đã cho kết quả 60 bệnh nhân (75.9%) có tổn thương ác tính và 57 trong số những tổn thương này được cắt bỏ hoàn toàn. Những chẩn đoán ác tính được xác định qua việc sinh thiết kim xuyên thành ngực và nội soi phế quản. 19 bệnh nhân (24.1%) là bệnh lành tính. 99mTc-MIBI SPECT cho thấy rõ tổn thương với sự tăng hoạt tính phóng xạ ở 55/60 (91.6%) tổn thương ác tính. Trong 5/60 (8.3%) tổn thương ác tính mà kết quả là âm tính thì có hai trường hợp là ung thư biểu mô tế bào vảy, một trường hợp là ung thư biểu mô tuyến, một trường hợp là ung thư biểu mô tế bào lớn, một trường hợp là tổn thương di căn, tuy nhiên 2 trong 5 bệnh nhân này tổn thương có vùng hoại tử trung tâm. Trong số 19 nốt lành tính 99mTc-MIBI SPECT âm tính là 14 (73.7%) trường hợp và dương tính trong 5 trường hợp (26.3%). Tuy nhiên 3/5 bệnh nhân với nốt lành tính và 99mTc-MIBI SPECT dương tính thì sự tăng hoạt tính phóng xạ ở mức thấp với vùng trung tâm giảm hoạt tính phóng xạ. Độ nhậy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính, giá trị dự báo âm tính lần lượt là 91%, 73%, 91% và 73%.
Yamamoto Yuka và cộng sự nghiên cứu trên 43 bệnh nhân có nốt ở phổi nhỏ hơn 3cm được làm 99mTc-MIBI SPECT, kết quả cho thấy độ nhậy ở pha sớm và pha muộn của 99mTc-MIBI SPECT trong việc phân biệt tổn thương ác tính và lành tính là 44%, 48% ; độ đặc hiệu tương ứng là 44%, 56%, và độ chính xác tương ứng là 44%, 51%.
Khi nghiên cứu vai trò của 99mTc- MIBI đối với chẩn đoán và phân giai đoạn của ung thư phổi, Omar A Minai và cộng sự (2000) [10] thấy phương pháp xạ hình SPECT với 99mTc- MIBI có độ nhạy là 85,7% và độ đặc hiệu là 100%, giá trị dự báo dương tính là 100%, giá trị dự báo âm tính là 57%. Mario Nossotti và cộng sự (2002) khi nghiên cứu 116 bệnh nhân ung thư phổi thấy độ nhạy là 89,8% độ đặc hiệu là 100%, giá trị dự báo dương tính là 100%, giá trị dự báo âm tính là 62,9% với độ chính xác là 91,4%, với hạch trung thất nghiên cứu này chỉ ra phương pháp có độ nhạy 54,5%, độ đặc hiệu là 100% còn CT cho kết quả độ nhạy 87,6% và độ đặc hiệu là 63,3%.
Đáp ứng với hóa trị là một trong những chỉ điểm quan trọng nhất ở bệnh nhân ung thư. Tuy nhiên đây là điều khó khăn thường xuyên cho việc xác định rõ về mặt lâm sàng hoặc X quang. Từ những năm 1980, đã tăng thêm các báo cáo chỉ ra rằng 99mTc-MIBI SPECT hấp thu vào một vài loại u, bao gồm ung thư phổi. 99mTc-MIBI được gắn vào một protein trọng lượng phân tử thấp ở trong các tiêu thể. 99mTc-MIBI có khả năng tích điện dương và ưa mỡ, ty thể và điện thế màng bào tương của tế bào u, và những thành phần trong ty thể của các tế bào u có thể đóng những vai trò quan trọng trong việc hấp thu những tác nhân này của tế bào ung thư. Sự hấp thu cũng có thể được xác định bằng cơ chế gián tiếp như là sự tăng tưới máu khối u và tăng tính thấm mao mạch. Những nghiên cứu gần đây gợi ý một giả thuyết là 99mTc-MIBI có thể tương tác với P-glycoprotein (Pgp), một protein màng bào tương, được mã hóa bởi gen MDR1, chất mà được cho thấy là làm giảm sự tích lũy của các thuốc gây độc như là anthracyclin, vinka alkaloids, colchicin và actinomycin-D. Pgp có chức năng như là một chất vận chuyển phụ thuộc năng lượng các tác nhân ưa mỡ gây độc tế bào. 99mTc-MIBI có thể bị tách ra khỏi dịch bào tương vượt gradient nồng độ như là một chất nền vận chuyển thích hợp bởi Pgp. 99mTc-MIBI cũng được thấy là hiệu quả hơn Tl-201 chloride trong việc trong việc đánh giá đáp ứng với hóa trị ở bệnh nhân NSCLC và SCLC. Sự hấp thu 99mTc-MIBI bởi các tế bào ung thư liên quan đến một vài yếu tố ( mô học: dòng máu và mạch máu; sinh học và hóa sinh: chuyển hóa tế bào và hoạt động sống; và sự biểu lộ của gen MDR1) mà tác động đến các hoạt động dược lý của thuốc và kết quả của hóa trị. Bởi vậy, mức độ hấp thụ 99mTc-MIBI có thể được giả định là kết quả của những cân bằng khác nhau giữa những yếu tố đó và nó có thể được xem như là một công cụ in vivo không xâm lấn để đánh giá độ nhạy cảm với hóa chất của các khối ung thư. Nó cũng gợi ý rằng việc xác định mức độ Pgp của bệnh nhân ở thời điểm chẩn đoán hoặc tái phát có thể đóng một vai trò quan trọng cho việc thiết kế phác đồ điều trị sau này, nhưng nhiều nghiên cứu khác nhau đã phát hiện ra rằng chỉ có mức độ biểu lộ thấp cuẩ MDR1 ở bệnh nhân ung thư phổi, bao gồm cả NSCLC và SCLC. Sự hấp thu 99mTc-MIBI trong khối u không nhất thiết chỉ ra rằng một ung thư nhạy cảm với thuốc là có liên quan với MDR1, bởi vì có nhiều cơ chế khác nhau cho sự kháng đa thuốc, như là sự kháng đa thuốc liên quan đến protein, sự tăng Glutathion-S-tranferase, thay đổi topoisomerase II, tăng sự sửa chữa DNA, và sự giảm thấp Cytochrom p450 reductase. Bệnh nhân SCLC với sự hấp thụ cao thì đáp ứng với hóa trị tốt hơn là những bệnh nhân hấp thụ thấp. Một báo cáo cũng chỉ ra rằng sự vắng mặt của hiện tượng hấp thu 99mTc-MIBI liên quan tới việc thất bại với hóa trị. Những nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng mức độ hấp thu 99mTc-MIBI ở ung thư phổi tế bào nhỏ có liên quan tới đáp ứng với hóa trị. Những thông tin thu được từ việc ghi hình bằng 99mTc-MIBI có thể được sử dụng trong dự báo quá trình diễn biến của ung thư với những bệnh nhân mà không đáp ứng với hóa trị thông thường, và có thể hướng dẫn cho việc thiết kế một protocol điều trị có hiệu quả nhất.
Theo nghiên cứu của Masayuki Sasaki và cộng sự (1999) cho thấy độ nhạy cảm với hóa chất có liên quan mật thiết với mức độ tập trung xạ ở pha sớm và tỷ lệ đào thải phóng xạ
Chia-Hung Kao và cộng sự (2000) với nghiên cứu dự báo sự đáp ứng với paclitaxel trên 30 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng 99mTc- MIBI SPECT ở pha sớm, so sánh tỷ số giữa số đếm của khối u và mô lành thấy 85% có đáp ứng tốt với hóa chất và 16,7% đáp ứng kém.
Trong chẩn đoán ung thư phổi nguyên phát: Murathan Sahin và cộng sự (1999) nghiên cứu trên 35 bênh nhân ung thư phổi bằng 99mTc- MIBI, tác giả đã đo đếm và so sánh giữa khối u với tim, giữa khối u với phổi lành thấy ung thư phổi tế bào nhỏ có khả năng bắt xạ cao hơn ung thư phổi tế bào lớn.
Khi nghiên cứu vai trò của 99mTc- MIBI đối với chẩn đoán và phân giai đoạn của ung thư phổi, Omar A Minai và cộng sự (2000) thấy phương pháp xạ hình SPECT với 99mTc- MIBI có độ nhạy là 85,7% và độ đặc hiệu là 100%, giá trị dự báo dương tính là 100%, giá trị dự báo âm tính là 57%. Mario Nossotti và cộng sự (2002) khi nghiên cứu 116 bệnh nhân ung thư phổi thấy độ nhạy là 89,8% độ đặc hiệu là 100%, giá trị dự báo dương tính là 100%, giá trị dự báo âm tính là 62,9% với độ chính xác là 91,4%, với hạch trung thất nghiên cứu này chỉ ra phương pháp có độ nhạy 54,5%, độ đặc hiệu là 100% còn CT cho kết quả độ nhạy 87,6% và độ đặc hiệu là 63,3%.
Arturo Chiti và cộng sự (1996) khi đánh giá giai đoạn bệnh ung thư phổi trên 36 bệnh nhân thấy SPECT 99mTc- MIBI chẩn đoán hạch di căn trong trung thất có độ nhậy 91%, độ đặc hiệu 84%, giá trị dự báo dương tính 71%, giá trị dự báo dương tính 71%, giá trị dự báo âm tính 95%, giá trị chẩn đoán 86%. Với chẩn đoán u nguyên phát các giá trị trên lần lượt là 85%, 100%, 100%, 50%, 87%.
Trong đánh giá kết quả điều trị, SPECT cũng có những ưu thế nhất định so với CT scan vì hình ảnh chức năng qua chụp SPECT có thể loại bỏ được những yếu tố gây sai lệch kết quả như xơ hóa, tràn dịch cạnh u… SPECT còn có vai trò định hướng điều trị, dự báo khả năng đáp ứng điều trị hóa chất của tế bào u, qua đó có giá trị trong việc góp phần tiên lượng bệnh. Về mặt hình ảnh học phân tử và liên hệ với sinh học phân tử trong ung thư, SPECT còn giúp chúng ta tìm hiểu sự bộc lộ các gen đa kháng thuốc, mối tương quan giữa sự bộc lộ này với đáp ứng hóa trị và tiên lượng bệnh.
Theo nghiên cứu của Masayuki Sasaki và cộng sự (1999) cho thấy độ nhạy cảm với hóa chất có liên quan mật thiết với mức độ tập trung xạ ở pha sớm và tỷ lệ đào thải phóng xạ
Can Ulman và cộng sự (2002) đã tiến hành nghiên cứu về mối liên quan giữa mức độ đáp ứng với hóa trị ung thư phổi, tiên lượng bệnh với tỷ số tập trung tại u thấy giữa chúng có mối tương quan tuyến tính thuận chiều tương đối chặt chẽ với hệ số tương quan r = 0.73.
Ngoài ra 99mTc- MIBI SPECT còn có giá trị đánh giá những trường hợp tái phát sau xạ trị, một vấn đề khó đối với các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác như XQ, CT. Theo Masya Futura và cộng sự (2003) nghiên cứu trên 18 bệnh nhân ung thư phổi nguyên phát không tế bào nhỏ đã được xạ trị trước đó một năm 99mTc- MIBI SPECT tiến hành ở pha muộn (sau 2 giờ tiêm 99mTc- MIBI) đã phát hiện 88,9% bắt xạ được chẩn đoán tái phát, có đối chiếu với lâm sàng.
Như vậy xạ hình 99mTc- MIBI SPECT có vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán, định giai đoạn, dự báo đáp ứng điều trị hóa chất của ung thư, và đánh giá tái phát sau phẫu thuật và xạ trị. Đây là phương pháp không chảy máu, giá thành có thể chấp nhận và không đòi hỏi phải có nhiều trang thiết bị hiện đại như PET. Phương pháp trở nên khả thi hơn ở các nước đang phát triển như Việt Nam.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh