Bạch hầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn gây ra, bệnh có thể gặp phải ở bất cứ đối tượng nào khi tiếp xúc với tác nhân gây bệnh. Trong đó, trẻ nhỏ từ 1 - 10 tuổi là đối tượng nguy cơ cao nhất do khả năng miễn dịch thấp khi kháng thể mẹ truyền không còn.
Bệnh truyền nhiễm cấp tính bạch hầu gây biến chứng nguy hiểm
Đây được đánh giá là bệnh lý nguy hiểm bởi các lý do sau:
Người bệnh bạch hầu vừa là ổ chứa vừa là nguồn lây nhiễm nguy hiểm cho cộng đồng. Thông thường thời gian khởi phát và lây truyền bệnh khá sớm, sau 2 - 5 ngày nhiễm bệnh.
Con đường truyền nhiễm như sau: Vi khuẩn bạch hầu tạo ổ bệnh với số lượng nhân lên nhanh chóng trên bề mặt nhầy của cổ họng. Tình trạng ho khiến cho vi khuẩn lẫn trong nước bọt bị bắn ra ngoài không khí. Khi người lành gần đó hít phải không khí chứa vi khuẩn bạch hầu sẽ bị nhiễm bệnh nếu không có kháng thể.
Với tốc độ lây lan nhanh chóng, đặc biệt ở những nơi đông người nên bạch hầu hoàn toàn có thể tạo thành dịch.
Vi khuẩn bạch hầu có thể lây lan nhanh chóng từ người bệnh sang người lành
Triệu chứng bệnh bạch hầu trong giai đoạn đầu rất giống với cảm lạnh thông thường như: ho, đau họng, sốt, ớn lạnh,… Tuy nhiên triệu chứng này sẽ nặng dần dù chăm sóc và uống thuốc cảm lạnh. Điều này gây nhầm lẫn cho nhiều người, dẫn đến việc điều trị chậm trễ và bệnh tiến triển nặng.
Thời gian triệu chứng gây nhầm lẫn này lại là thời điểm điều trị bệnh dễ dàng, hiệu quả nhất. Thường nó chỉ kéo dài 2 - 5 ngày.
Giai đoạn sau khi giả mạc dày lên và lan rộng khắp mũi họng, người bệnh xuất hiện triệu chứng toàn thân do độc tố vi khuẩn gây ra cũng như giả mạc gây bít tắc đường hô hấp. Việc điều trị lúc này không những khó khăn, mất thời gian hơn mà sức khỏe, thậm chí tính mạng của người bệnh cũng bị đe dọa.
Người bệnh bạch hầu phải đối mặt với cả biến chứng do độc tố vi khuẩn gây ra lẫn biến chứng hô hấp do giả mạc họng.
Biến chứng hô hấp do giả mạc: Giả mạc vi khuẩn bạch hầu tạo ra là một lớp dai, bám chắc ngoài niêm mạc họng, rất khó bóc ra và gây đau đớn, chảy máu. Nhưng nếu không loại bỏ lớp giả mạc này, khi chúng ngày một dày lên có thể gây bít tắc, cản trở hô hấp của người bệnh.
Biến chứng bệnh bạch hầu có thể khiến trẻ tử vong
Biến chứng viêm cơ tim: Đây là biến chứng thường gặp khi độc tố mà vi khuẩn bạch hầu tạo ra ngấm vào máu và theo dòng máu đi khắp cơ thể. Triệu chứng gặp phải gồm: rối loạn nhịp tim, trụy tim mạch, suy tim có thể dẫn tới tử vong nhanh chóng.
Biến chứng thần kinh: Khi độc tố đi theo đường máu có thể tác động lên hệ thần kinh gây biến chứng liệt cơ hoành, yếu cơ tay chân, khó nuốt,... Liệt cơ hoành có thể gây biến chứng viêm phổi, suy hô hấp nguy hiểm.
Ngoài ra, độc tố có thể gây nhiều biến chứng thận như: hoại tử ống thận, thoái hóa thận,…
Các biến chứng nguy hiểm khi bệnh bạch hầu không được điều trị sớm và hiệu quả có thể xảy đến rất nhanh, chỉ trong vòng 6 - 10 ngày. Hầu hết bệnh nhân tử vong do biến chứng tắc nghẽn đường hô hấp và viêm cơ tim. Ngoài ra, biến chứng bệnh cũng gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, khó phục hồi hoàn toàn dù được điều trị tốt.
Do diễn tiến bệnh nhanh, nguy hiểm và mức độ lây lan rộng nên chủ động phòng ngừa bệnh bạch hầu được ưu tiên hàng đầu. Kể từ năm 1923, khi y học tìm ra vắc xin bạch hầu, đến nay đây vẫn là biện pháp phòng ngừa bệnh hiệu quả nhất được thực hiện rộng rãi trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, Bộ Y tế cũng đưa vắc xin bạch hầu vào thành một trong những vắc xin phổ cập toàn dân, được tiêm phòng miễn phí cho trẻ nhỏ khắp cả nước.
Vắc xin bạch hầu ra đời giúp bảo vệ nhân loại hiệu quả trước căn bệnh truyền nhiễm này
Những người được tiêm phòng vắc xin bạch hầu sẽ tự sản sinh miễn dịch đặc hiệu tồn tại lâu dài trong máu. Khi tiếp xúc với vi khuẩn gây bệnh, kháng thể sẽ nhanh chóng tiêu diệt nên không bị mắc bệnh. Tiêm phòng vắc xin là biện pháp hiệu quả giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh và biến chứng tử vong do bệnh gây ra.
Báo cáo khoa học đã cho biết, khoảng 2,5 triệu trẻ em trên thế giới thoát khỏi tử thần do bệnh truyền nhiễm nhờ được tiêm ngừa vắc xin, trong đó có vắc xin bạch hầu. Vì thế trẻ nhỏ nên được tiêm phòng vắc xin bạch hầu, tại Việt Nam có thể tiêm phòng dễ dàng bằng các loại sau:
Người lớn chưa có miễn dịch hoặc có nguy cơ cao mắc bệnh cũng nên chủ động tiêm phòng tại các Trung tâm tiêm chủng dịch vụ. Về số mũi tiêm cần thiết, trẻ nhỏ cần tiêm đủ 3 liều lúc 2, 3 và 4 tháng tuổi, sau đó tiêm nhắc lại vào lúc 18 tháng tuổi. Trẻ lớn hơn hoặc người lớn tiêm đủ số mũi theo vắc xin phòng ngừa và tiêm nhắc lại sau mỗi 10 năm để duy trì kháng thể.
Trẻ em là đối tượng được khuyến cáo nên tiêm vắc xin bạch hầu sớm
Vắc xin bạch hầu sử dụng độc tố bạch hầu đã bị mất độc tính nên rất an toàn, hầu hết người sau tiêm phòng không gặp biến chứng gì. Một số tác dụng phụ sau tiêm phòng bệnh bạch hầu có thể gặp phải như: sốt, sưng đỏ, đau tại vị trí tiêm,… sẽ tự biến mất sau 1 - 2 ngày. Nếu có triệu chứng bất thường, hãy liên hệ với bác sĩ để được kiểm tra và xử trí kịp thời.
Tin cùng chuyên đề: Những thông tin tổng quan về bệnh bạch hầu
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh