THÀNH PHẦN
Hoạt chất:
Adalat LA 30: 1 viên phóng thích kéo dài chứa 30mg nifedipine.
Adalat LA 60: 1 viên phóng thích kéo dài chứa 60 mg nifedipine.
Tá dược: Hypromellose, Polyethylene oxide, Magnesium stearate, Sodium chloride, Oxide sắt đỏ (E172/C.I. 77491), Cellulose acetate, Polyethylene glycol 3350, Hydroxypropyl cellulose, Propylene glycol, Titanium dioxide (E171/C.I. 77891).
CÔNG DỤNG (CHỈ ĐỊNH)
Điều trị bệnh mạch vành:
Cơn đau thắt ngực ổn định mạn tính (đau khi gắng sức).
Điều trị tăng huyết áp:
Trong một nghiên cứu tiền cứu, mù đôi, ngẫu nhiên, đa quốc gia, điều trị 6321 bệnh nhân tăng huyết áp có thêm ít nhất một yếu tố nguy cơ được theo dõi trong thời gian hơn 3 - 4.8 năm, người ta thấy Adalat (Nifedipine dạng GITS) làm giảm các biến cố tim mạch và mạch máu não đến một mức độ có thể so sánh được với điều trị phối hợp lợi tiểu chuẩn.
LIỀU DÙNG
Cách dùng: Dùng đường uống.
Liều lượng:
Theo chừng mực có thể, điều trị cần phải được thay đổi tùy theo nhu cầu từng bệnh nhân.
Tùy theo bệnh cảnh lâm sàng trong mỗi trường hợp, liều căn bản phải được áp dụng dần dần.
Trừ phi được kê toa theo cách khác, hướng dẫn liều lượng sau được áp dụng cho người lớn:
Nói chung nên khởi đầu điều trị với liều 30mg mỗi ngày.
Tùy thuộc vào độ trầm trọng của bệnh và sự đáp ứng của bệnh nhân, có thể tăng liều từng giai đoạn lên đến 120mg một lần mỗi ngày.
Việc dùng thuốc cùng với các chất ức chế CYP 3A4 và cảm ứng CYP 3A4 có thể dẫn đến việc khuyến cáo điều chỉnh liều hoặc ngừng sử dụng nifedipine (xem Tương tác thuốc và các dạng tương tác khác).
THỜI GIAN SỬ DỤNG:
Bác sĩ điều trị sẽ xác định thời gian sử dụng thuốc.
Cách uống thuốc:
Theo nguyên tắc, thuốc được uống nguyên viên với một ít nước, không tùy thuộc vào bữa ăn. Nên tránh uống cùng nướp ép quả bưởi (xem Tương tác thuốc và các dạng tương tác khác).
THÔNG TIN THÊM TRÊN NHỮNG ĐỐI TƯỢNG ĐẶC BIỆT:
Trẻ em và thanh thiếu niên: Độ an toàn và hiệu quả của Adalat LA trên trẻ em dưới 18 tuổi chưa được chứng minh.
Người già: Theo dữ liệu nghiên cứu dược động học của Adalat LA, không cần chỉnh liều ở người già trên 65 tuổi.
Bệnh nhân tổn thương gan: Với bệnh nhân có tổn thương chức năng gan, cần theo dõi chặt chẽ và trong những trường hợp nặng cần giảm liều.
Bệnh nhân tổn thương thận: Theo dữ liệu nghiên cứu dược động học, không cần chỉnh liều ở người có tổn thương thận (xem phần Dược động học).
Không được nhai hay bẻ viên thuốc!
KHÔNG SỬ DỤNG TRONG TRƯỜNG HỢP SAU (CHỐNG CHỈ ĐỊNH)
Không được sử dụng Adalat LA trong những trường hợp có tiền căn mẫn cảm với nifedipine hay bất cứ thành phần nào của thuốc.
Nifedipine không được sử dụng trong thời gian mang thai và cho con bú.
Adalat LA không được sử dụng trong những trường hợp shock tim mạch.
Không được dùng Adalat LA ở những bệnh nhân có túi cùng Kock (thủ thuật mở thông hồi tràng sau phẫu thuật cắt bỏ đại trực tràng).
Nifedipine không được dùng phối hợp với rifampicin vì có thể không đạt được nồng độ nifedipine hiệu quả trong huyết tương do sự cảm ứng enzyme.
LƯU Ý KHI SỬ DỤNG (CẢNH BÁO VÀ THẬN TRỌNG)
Phải lưu ý đến các bệnh nhân có huyết áp quá thấp (hạ huyết áp trầm trọng với huyết áp tâm thu thấp hơn 90mmHg); các trường hợp có các biểu hiện suy tim và hẹp động mạch chủ trầm trọng.
Chưa có dữ liệu về an toàn và hiệu quả từ các nghiên cứu có kiểm soát tốt trên phụ nữ có thai.
Các nghiên cứu trên động vật cho thấy tính đa dạng của các các tác dụng gây độc cho phôi, nhau và bào thai (xem Các dữ liệu tiền lâm sàng) khi sử dụng trong và sau thời gian tạo cơ quan.
Từ các bằng chứng lâm sàng hiện nay, chưa định danh được nguy cơ trước khi sanh đặc hiệu. Mặc dù có sự gia tăng ngạt chu sinh, mổ bắt con cũng như sinh non và chậm tăng trưởng trong tử cung đã được báo cáo. Không rõ là các báo cáo này là do cao huyết áp tiềm ẩn, việc điều trị bệnh hay do tác dụng đặc hiệu của thuốc hay không. Thông tin hiện nay chưa đầy đủ để loại trừ các tác dụng bất lợi của thuốc trên trẻ chưa sinh ra và sơ sinh. Vì vậy bất kỳ sử dụng thuốc trên phụ nữ có thai sau tuần 20 cần một sự đánh giá thận trọng về nguy cơ và ích lợi trên từng cá nhân và chỉ được xem xét nếu tất cả các lựa chọn điều trị khác hoặc không được chỉ định hoặc không có hiệu quả.
Cũng phải theo dõi thận trọng huyết áp khi dùng nifedipine với magne sulfate tiêm tĩnh mạch, do khả năng tụt huyết áp quá mức có thể gây hại cho cả bà mẹ và thai nhi.
Tương tự các chất không biến đổi khác, (xem phần Hướng dẫn sử dụng) nên thận trọng khi dùng Adalat LA ở những bệnh nhân có trước hẹp nặng đường tiêu hóa do có thể gây triệu chứng tắc nghẽn. Hiện tượng dị vật dạ dày có thể xảy ra trong các trường hợp rất hiếm gặp và có thể phải can thiệp bằng phẫu thuật.
Các triệu chứng tắc nghẽn trong trường hợp riêng lẻ đã được mô tả mà không biết bệnh sử rối loạn tiêu hóa.
Khi chụp X-quang với chất cản quang barium, Adalat LA có thể tạo hình ảnh dương tính giả (ví dụ: khiếm khuyết đổ đầy có thể lầm với polyp).
Ở bệnh nhân có tổn thương chức năng gan, cần theo dõi kỹ khi dùng thuốc, và giảm liều trong trường hợp nặng.
Nifedipine chuyển hóa qua hệ thống Cytochrome P450 3A4, những thuốc ức chế hay cảm ứng hệ thống enzym này vì thế có thể làm thay đổi chuyển hóa bước 1 hay độ thanh thải của nifedipine.
Vì vậy, các thuốc ức chế hệ thống Cytochrome P450 3A4 có thễ dẫn tới sự tăng nồng độ của nifedipine trong huyết tương như:
Kháng sinh nhóm macrolide (ví dụ: erythromycin).
Chất chống HIV ức chế protease (ví dụ: ritonavir).
Azole chống nấm (ví dụ: ketoconazole).
Thuốc chống trầm cảm nefazodone và fluoxetine.
Quinupristin/dalfopristin.
Acid valproic.
Cimetidine.
Khi dùng chung với các thuốc này phải theo dõi huyết áp và nếu cần, phải cân nhắc đến việc giảm liều nifedipine.
Sự tăng liều tới mức tối đa một ngày là 120mg nifedipine có thể dẫn đến tăng hấp thu 2mmol natri mỗi ngày. Do vậy nên cân nhắc tới việc kiểm soát lượng natri đưa vào cơ thể bệnh nhân.
Sử dụng thuốc trên những đối tượng đặc biệt: xem mục Liều lượng và cách dùng.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN (TÁC DỤNG PHỤ)
Các tác dụng không mong muốn của thuốc (ADR) dựa trên các nghiên cứu với giả dược và nifedipine được thu thập theo các mẫu báo cáo tác dụng không mong muốn của thuốc CIOMS nhóm III về tần xuất xuất hiện (Cơ sở các dữ liệu thử nghiệm lâm sàng: nifedipine n = 2,661; giả dược n= 1,468; ngày 22/02/2006 và trong thử nghiệm ACTION: nifedipine n = 3,825, giả dược n = 3,840) được liệt kê dưới đây:
Các phản ứng thuốc không mong muốn (ADR) liệt kê trong mục “thường gặp” có tần xuất xuất hiện < 3% trừ triệu chứng phù (9.9%) và đau đầu (3.9%).
Các tần suất ADR được báo cáo với các sản phẩm có chứa nifedipine được tóm tắt trong bảng dưới đây. Trong mỗi nhóm tần suất, các tác dụng không mong muốn được trình bày theo thứ tự độ trầm trọng giảm dần. Các tần suất được xác định là thường gặp (≥ 1/100 đến < 1/10), ít gặp (≥ 1/1,000 đến < 1/100) và hiếm gặp (≥ 1/10,000 đến < 1/1,000). Các ADR chỉ được định danh trong thời gian theo dõi sau khi đưa ra marketing, và cho tần suất không thể ước lượng, được liệt kê dưới đây “Không biết”.
1 = có thể đe dọa đến tính mạng.
Ở những bệnh nhân thẳm tách có tăng huyết áp và giảm thể tích máu ác tính, có thể xảy ra hiện tượng giảm huyết áp rõ do dãn mạch.
Thông báo cho bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
TƯƠNG TÁC VỚI CÁC THUỐC KHÁC
Thuốc ảnh hưởng đến nifedipine:
Nifedipine được chuyển hóa qua hê thống cytochrome P450 3A4, có trong cả niêm mạc ruột và gan. Do đó những thuốc có tác dụng ức chế hoặc cảm ứng hệ thống enzyme này có thể làm thay đổi bước chuyển hóa đầu tiên tại gan (sau khi uống) hoặc độ thanh thải nifedipine.
Nên cân nhắc về mức độ cũng như thời gian tương tác khi sử dụng nifedipine với các thuốc sau:
Rifampicin:
Rifampicin cảm ứng mạnh hệ thống cytochrome P450 3A4. Khi dùng phối hợp rifampicin, sinh khả dụng của nifedipine giảm rõ rệt, làm giảm hiệu quả điều trị. Do đó, chống chỉ định sử dụng phối hợp nifedipine với rifampicin.
Khi dùng chung với các chất ức chế hệ thống cytochrome P450 3A4 ở mức độ nhẹ đến trung bình sau đây nên theo dõi huyết áp, nếu cần phải giảm liều.
Kháng sinh nhóm macrolid (như erythromycin):
Chưa có nghiên cứu tương tác nào được thực hiện giữa nifedipine và kháng sinh nhóm macrolid. Một số kháng sinh nhóm này được biết đến là có khả năng ức chế chuyển hóa qua trung gian cytochrome P450 3A4 của các thuốc khác. Vì thế không thể loại trừ nguy cơ tăng nồng độ nifedipine trong huyết tương khi phối hợp 2 thuốc này.
Azithromycin tuy có liên quan về mặt cấu trúc với kháng sinh nhóm macrolide nhưng lại không ức chế CYP3A4.
Chất chống HIV ức chế protease (ví dụ: ritonavir)
Chưa có nghiên cứu chính thức nào được tiến hành để nghiên cứu khả năng tương tác giữa nifedipine và một số thuốc chống HIV ức chế protease. Các thuốc trong nhóm này được biết là ức chế hệ thống cytochrome P450 3A4, hơn nữa lại ức chế in vitro chuyển hóa qua trung gian cytochrome P450 3A4 của nifedipine. Vì vậy khi sử dụng cùng với nifedipine không thể loại trừ khả năng tăng mạnh nồng độ nifedipin trong huyết tương do giảm chuyển hóa bước một và giảm thải trừ nifedipine.
Azole chống nấm (ví dụ: ketoconazole):
Hiện nay chưa có nghiên cứu chính thức nào được thực hiện nhằm đánh giá khả năng tương tác thuốc giữa nifedipine và các azole chống nấm cụ thể. Các thuốc thuộc nhóm này có khả năng ức chế hệ thống cytochrome P450 3A4. Khi uống các thuốc trên cùng lúc với nifedipine không thể loại trừ khả năng gia tăng đáng kể sinh khả dụng của nifedipine do giảm chuyển hoá bước 1.
Fluoxetin:
Chưa có một nghiên cứu lâm sàng nào đánh giá khả năng tương tác giữa nifedipine và fluoxetin. Trên in vitro fluoxetin có tác dụng ức chế cytochrome P450 3A4 qua trung gian chuyển hóa nifedipine. Do đó không loại trừ khả năng tăng nồng độ nifedipine trong huyết tương khi sử dụng phối hợp cả hai loại thuốc trên.
Nefazodone:
Chưa có một nghiên cứu nào được tiến hành trên lâm sàng để đánh giá khả năng tương tác giữa nifedipine và nefazodone. Nefazodone có khả năng ức chế hệ enzym cytochrome P450 3A4, chất trung gian chuyển hoá của các thuốc khác. Do vậy không loại trừ được khả năng tăng nồng độ của nifedipine trong huyết tương khi sử dụng đồng thời 2 thuốc này.
Quinupristin/Dalfopristin:
Dùng phối hợp quinupristin/dalfopristin và nifedipine có thể làm tăng nồng độ của nifedipine trong huyết tương.
Valproic acid:
Chưa có nghiên cứu nào được thực hiện nhằm đánh giá khả năng tương tác thuốc giữa nifedipine và acid valproic. Vì acid valproic làm tăng nồng độ trong máu các chất ức chế kênh canxi có cấu trúc tương tự nimodipine do hiện tượng ức chế enzyme, làm tăng nồng độ nifedipine trong máu và do đó làm tăng tác dụng của thuốc là không thể loại trừ được.
Cimetidine:
Do tác dụng ức chế cytochrome P450 3A4, cimetidine làm tăng nồng độ nifedipine trong huyết tương và có thể làm tăng tác dụng hạ áp.
Các nghiên cứu xa hơn:
Cisapride:
Dùng kết hợp cisapride và nifedipine có thể làm tăng nồng độ nifedipine trong máu. Khi phối hợp hai loại thuốc trên, nên theo dõi huyết áp và giảm liều nifedipine khi cần.
Các thuốc chống động kinh cảm ứng hệ thống cytochrome P450 3A4 như phenytoin, carbamazepin và phenobarbitone:
Phenytoin gây cảm ứng hệ thống cytochrome P450 3A4 nên khi dùng đồng thời sẽ làm giảm sinh khả dụng của nifedipine do đó làm giảm khả năng điều trị. Khi dùng đồng thời 2 thuốc này đáp ứng lâm sàng của nifedipine nên được theo dõi và nếu cần phải tăng liều nifedipine, và khi ngừng điều trị với phenytoin phải giảm liều nifedipine nếu tăng liều nifedipin trong thời gian dùng đồng thời cả hai thuốc.
Chưa có nghiên cứu chính thức nào điều tra khả năng tương tác giữa nifedipine với carbamazepine hay phenobarbitone. Nhưng vì 2 thuốc này cho thấy làm giảm nồng độ trong huyết tương của nimodipine, chất chẹn kênh calci có cấu trúc tương tự nifedipine do cảm ứng men nên không thể loại bỏ khả năng thuốc làm giảm nồng độ nifedipine trong huyết tương và làm giảm hiệu quả điều trị của nifedipine.
Ảnh hưởng của nifedipine đến các thuốc khác:
Các thuốc hạ huvết áp:
Nifedipine có thể làm tăng khả năng hạ huyết áp của các thuốc chống tăng huyết áp khác khi dùng đồng thời như thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn β, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn thụ thể angiotensin 1 (AT-1), thuốc chẹn kênh calci khác, thuốc chẹn α-adrenergic, chất ức chế PDE5, và α-methyldopa.
Khi dùng nifedipine đồng thời với thuốc chẹn β, bệnh nhân phải được theo dõi cẩn thận vì sự hạ huyết áp khá nghiêm trọng có thể xảy ra. Trong một số trường hợp riêng biệt, có thể làm nặng hơn tình trạng suy tim.
Digoxin:
Dùng đồng thời nifedipine và digoxin có thể làm giảm độ thanh thải digoxin, vì vậy làm tăng nồng độ digoxin huyết tương. Do đó, nên lưu ý theo dõi triệu chứng quá liều digoxin ở bệnh nhân. Nếu cần, nên giảm liều glycoside theo nồng độ digoxin huyết thanh.
Quinidine:
Khi nifedipine được dùng đồng thời với quinidine, người ta nhận thấy trên vài cá thể nồng độ quinidine giảm hoặc sau khi ngưng điều trị nifedipine, nồng quinidine tăng cao rõ rệt. Vì thế, cần theo dõi nồng độ quinidine hay phải điều chỉnh liều nếu dùng phối hợp hoặc ngưng sử dụng nifedipine.
Một số tác giả ghi nhận nồng độ nifedipine trong máu tăng khi dùng phối hợp 2 loại thuốc trên, trong khi những tác giả khác không nhận thấy có sự thay đổi nào về dược động học của nifedipine. Do đó nên theo dõi huyết áp cẩn thận khi dùng quinidine ở bệnh nhân đang được điều trị nifedipine. Nếu cần nên giảm liều nifedipine.
Tacrolimus:
Được chuyển hóa qua hệ thống cytochrome P450 3A4. Các dữ liệu được công bố gần đây cho rằng có thể phải giảm liều nifedipine khi dùng đồng thời với tacrolimus tùy từng trường hợp. Khi dùng phối hợp cả hai loại thuốc trên, nên theo dõi nồng độ tacrolimus trong huyết thanh và giảm liều nifedipine khi cần.
TƯƠNG TÁC THUỐC - THỨC ĂN
Nước ép quả bưởi:
Nước ép quả bưởi ức chế hệ thống cytochrome P450 3A4. Uống nifedipine với nước ép quả bưởi vì thế làm tăng nồng độ nifedipine trong huyết tương và kéo dài tác dụng của nifedipine do làm giảm chuyển hóa bước một hay giảm thanh thải. Hậu quả là có thể làm tăng tác dụng hạ huyết áp. Sau khi uống nước ép quả bưởi tác dụng này có thể kéo dài ít nhất 3 ngày. Do vậy phải tránh uống nước ép quả bưởi khi uống nifedipine.
Không có khả năng tương tác thuốc:
Aimaline:
Sử dụng đồng thời nifedipine và ajmaline không ảnh hưởng đến chuyển hóa của ajmaline.
Aspirin:
Dùng đồng thời nifedipine và aspirin 100mg không có ảnh hưởng lên dược động học của nifedipine. Dùng đồng thời nifedipine không làm thay đổi tác dụng của aspirin 100mg lên sự kết tập tiểu cầu và thời gian máu chảy.
Benazepril:
Sử dụng đồng thời nifedipine với Benazepril không ảnh hưởng đến dược động học của nifedipine.
Candesartan Cilexetil:
Dùng đồng thời nifedipine và candesartan cilexetil không có ảnh hưởng lên dược động học của cả hai loại thuốc.
Debrisoquine:
Sử dụng đồng thời nifedipine với debrisoquine không ảnh hưởng đến tỉ lệ (chuyển hoá của debrisoquine.
Doxazosin:
Sử dụng đồng thời nifedipine với doxazosin không ảnh hưởng đến dược động học của nifedipine.
Irbesartan:
Dùng phối hợp nifedipine và irbesartan không có ảnh hưởng lên dược động học của irbesartan.
Omeprazole:
Sử dụng đồng thời nifedipine với Omeprazole không có ảnh hưởng rõ rệt trên lâm sàng đến dược động học của nifedipine.
Orlistat:
Sử dụng đồng thời nifedipine với orlistat không ảnh hưởng đến dược động học của nifedipine.
Pantoprazole:
Sử dụng đồng thời nifedipine với pantoprazole không ảnh hưởng đến dược động học của nifedipine.
Ranitidine:
Sử dụng đồng thời nifedipine với ranitidine không ảnh hưởng đến dược động học của nifedipine.
Rosiglitazone:
Sử dụng đồng thời nifedipine với rosiglitazone không có ảnh hưởng rõ rệt trên lâm sàng đến dược động học của nifedipine.
Talinolol:
Sử dụng đồng thời nifedipine với talinolol không ảnh hưởng đến dược động học của nifedipine
Triamterene Hydrochlothiazide:
Sử dụng đồng thời nifedipine với triamterene hydrochlothiazide không ảnh hưởng đến dược động học của nifedipine.
Các dạng tương tác thuốc khác:
Nifedipine có thể làm tăng giả tạo giá trị quang phổ của acid vanillyl-mandelic trong nước tiểu. Tuy nhiên đo bằng phương pháp HPLC không bị ảnh hưởng.
BẢO QUẢN
Trong Adalat LA, thuốc được chứa trong một vỏ bọc không bị hấp thu làm cho thuốc được phóng thích dần vào cơ thể để hấp thu. Khi quá trình này hoàn tất, viên thuốc rỗng này sẽ được thải ra khỏi cơ thể và có thể để ý thấy trong phân.
Hoạt chất chứa trong viên thuốc nhạy cảm với ánh sáng do vậy nó được bảo vệ khỏi ánh sáng bởi mặt trong và mặt ngoài của vỉ thuốc. Không được để thuốc nơi ẩm và phải uống ngay sau khi lấy thuốc ra khỏi vỉ.
Không bảo quản ở nhiệt độ trên 30°C.
LÁI XE
Phản ứng đối với thuốc thay đổi tùy theo từng bệnh nhân, cỏ thể làm giảm khả năng lái xe hoặc vận hành máy móc. Điều này đặc biệt xảy ra khi bắt đầu điều trị, thay đổi thuốc và khi uống rượu kèm theo.
THAI KỲ
Phụ nữ có thai:
Chống chỉ định dùng nifedipine ở phụ nữ có thai trước tuần 20.
Hiện nay chưa có các nghiên cứu đầy đủ và kiểm chứng tốt được thực hiện trên phụ nữ mang thai.
Các nghiên cứu trên động vật đã chứng minh nifedipine gây ra độc tính phôi thai, bào thai và sinh quái thai.
Phụ nữ cho con bú:
Nifedipine được bài tiết vào sữa mẹ. Vì chưa có kinh nghiệm về tác dụng có thể có của thuốc trên trẻ nhỏ, việc trước tiên nên ngừng cho con bú nếu cần phải điều trị với nifedipine trong thời gian cho con bú.
Thụ tinh trong ống nghiệm:
Trong vài trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm riêng lẻ, các chất kháng canxi như nifedipine gây ra những biến đổi về sinh hóa có hồi phục ở phần đầu của tinh trùng có thể làm suy giảm chức năng tinh trùng. Ở những người đàn ông muốn có con bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo nhưng thất bại nhiều lần, và khi không tìm được một lý do nào khác, chất kháng canxi như nifedipine có thể được xem là một nguyên nhân.
ĐÓNG GÓI
Hộp 10 viên (3 vỉ x 10 viên).
HẠN DÙNG
Adalat LA 60mg: 48 tháng.
Adalat LA 30mg: 48 tháng.
QUÁ LIỀU
Triệu chứng:
Trong trường hợp nhiễm độc nifedipine nặng có các triệu chứng sau: rối loạn tri giác có thể đưa đến hôn mê, tụt huyết áp, rối loạn nhịp tim nhanh/chậm, tăng đường huyết, toan chuyển hoá, giảm oxy, choáng tim kèm phù phổi.
Xử trí quá liều ở người:
Trong điều trị, biện pháp hàng đầu là loại bỏ hoạt chất và hồi sức tim mạch ổn định. Sau khi uống thuốc, rửa dạ dày triệt để được chỉ định, nếu cần có thể phối hợp thụt rửa ruột non.
Đặc biệt trong trường hợp nhiễm độc thuốc phóng thích chậm như Adalat LA, cần phải loại bỏ thuốc càng hoàn toàn càng tốt, gồm cả ở ruột non, để tránh tình trạng hấp thu hoạt chất tiếp tục sau đó.
Thẩm tách máu không có tác dụng, vì nifedipine không bị thẩm phân, nhưng trích huyết tương có thể khuyến cáo (thuốc gắn kết với protein huyết tương cao, thể tích phân bố tương đối chậm).
Rối loạn nhịp tim chậm có thể điều trị triệu chứng bằng β-sympathomimetic, trường hợp nặng đe dọa sinh mạng có thể được khuyến cáo đặt máy tạo nhịp tạm thời.
Hạ huyết áp hậu quả của choáng do tim và dãn động mạch có thể điều trị bằng canxi (10 - 20ml dung dịch gluconate canxi 10% tiêm tĩnh mạch chậm và lặp lại nếu cần). Kết quả là nồng độ canxi máu có thể đạt mức độ giới hạn trên của bình thường đến hơi tăng nhẹ. Nếu không nâng được huyết áp bằng canxi, có thể dùng thêm các chất giống giao cảm gây co mạch như dopamine hoặc noradrenaline. Liều lượng sử dụng các loại thuốc trên tùy theo hiệu quả đạt được.
Cần thận trọng khi truyền dịch thêm do nguy cơ quá tải đối với tim.
DƯỢC LỰC HỌC
Nifedipine là một chất đối kháng canxi thuộc nhóm 1,4-dihydropyridine. Nó làm giảm dòng ion calcium qua màng vào trong tế bào thông qua kênh canxi chậm. Nifedipine đặc biệt tác dụng lên tế bào cơ tim và tế bào cơ trơn của động mạch vành và các mạch máu đối kháng ngoại biên.
Ở tim, nifedipine làm dãn động mạch vành, đặc biệt ở các mạch máu lớn, ngay cả ở phần thành mạch tự do của vùng hẹp động mạch bán phần. Ngoài ra nifedipine còn làm giảm trương lực cơ trơn động mạch vành và ngăn ngừa sự co thắt mạch. Kết quả sau cùng là làm tăng lưu lượng máu sau chỗ hẹp và tăng cung cấp oxy. Đồng thời, nifedipine giảm nhu cầu tiêu thụ oxy của cơ tim do giảm kháng lực ngoại biên (giảm hậu tải). Khi dùng dài hạn, Nifedipine cũng có thể ngăn ngừa sự hình thành các tổn thương xơ vữa mới trong động mạch vành.
Nifedipine làm giảm trương lực cơ trơn tiểu động mạch, do đó giảm kháng lực ngoại biên và giảm huyết áp. Khi bắt đầu điều trị nifedipine, có thể có phản xạ tăng nhịp tim tạm thời và làm tăng cung lượng tim. Tuy nhiên sự gia tăng này không đủ bù trừ cho tình trạng dãn mạch. Hơn nữa, nifedipine tăng sự bài tiết muối, nước khi dùng ngắn hạn và lâu dài. Tác dụng hạ áp của nifedipine tăng đáng kể ở các bệnh nhân tăng huyết áp.
Trong một nghiên cứu tiến cứu, ngẫu nhiên, mù đôi, và đa quốc gia bao gồm 6321 bệnh nhân tăng huyết áp có thêm ít nhất một yếu tố nguy cơ kéo dài trên 3 đến 4.8 năm, nifedipine (nifedipine CR - nifedipine giải phóng có kiểm soát) cho thấy giảm các biến cố về tim mạch và mạch máu não đến mức độ có thể so sánh được với điều trị phối hợp các thuốc lợi tiểu chuẩn.
Trong nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược và đa trung tâm ACTION kéo dài đến 5 năm bao gồm 7665 bệnh nhân mắc chứng đau thắt ngực thể ổn định được điều trị chuẩn về thực hành nhất, hiệu quả lâm sàng của nifedipine và giả dược đã được đánh giá.
Chỉ tiêu chính yếu về hiệu quả điều trị (tính đến tỉ lệ chết bởi bất kỳ nguyên nhân nào, nhồi máu cơ tim, đau thắt ngực dai dẳng, suy tim mới, đột quỵ, phân phối lại mạch ngoại biên) không có sự khác nhau giữa nhóm bệnh nhân dược chỉ định nifedipine CR (n = 3825) và bệnh nhân được sử dụng giả dược (n = 3840) (P = 0.54).
Trong một phân tích phân nhóm định trước gồm 3997 bệnh nhân mắc cơn đau thắt ngực có tăng huyết áp lúc ban đầu được điều trị với nifedipine CR dẫn đến giảm có ý nghĩa 13% tiêu chí chính về hiệu quả điều trị.
Nifedipine CR đã được chứng minh là an toàn vì tiêu chí chính về an toàn (tính đến tỉ lệ chết bởi bất kỳ nguyên nhân nào, nhồi máu cơ tim và đột quỵ) tương đương ở cả hai nhóm điều trị (P=0.86).
Nifedipine CR có hiệu quả rõ ràng trên 2 trong 3 tiêu chí phụ được định trước. Tỉ lệ phối hợp tử vong, các biến cố tim mạch, sự phân phối lại mạch và chụp X quang mạch vành giảm đi 11% (P=0.0012), lý do chính là sự giảm rõ nhu cầu chụp X quang mạch vành.
Nhóm sử dụng nifedipre có ít hơn 150 người chụp X quang mạch vành như là biến cố đầu tiên so với nhóm dùng giả dược. Các biến cố về mạch giảm 9% (P = 0.027), lý do chính là giảm nhu cầu can thiệp mạch vành qua da và phẫu thuật nối tắt. Tóm lại, có ít hơn 89 trường hợp biến cố đầu tiên giữa nhóm nifedipine so với giả dược. Kết quả của tiêu chí phụ thứ 3 là các biến cố mạch máu lớn không có sự khác nhau giữa 2 nhóm điều trị (P = 0.26).
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Viên Adalat LA được sản xuất nhằm cung cấp nifedipine ở tỉ lệ xấp xỉ không đổi trong 24 giờ. Nifedipine được phóng thích từ viên thuốc ở mức độ từ 0 bằng một quá trình hút - đẩy thẩm thấu, được kiểm soát qua màng. Tốc độ phóng thích thuốc không phụ thuộc độ pH hoặc nhu động dạ dày ruột. Khi nuốt, các thành phần trơ về mặt sinh học của viên thuốc còn nguyên khi được vận chuyển trong đường tiêu hóa và sẽ được loại bỏ trong phân dưới dạng vỏ bọc không hòa tan.
Hấp thu:
Sau khi uống, Nifedipine được hấp thu gần như hoàn toàn. Khả dụng toàn thân sau khi uống của Nifedipine dạng phóng thích ngay (dạng viên nang) là vào khoảng 45 - 56% do tác dụng chuyển hoá đầu tiên. Sinh khả dụng ổn định của Nifedipine dạng CR vào khoảng 68 - 86% của viên nang Nifedipine. Thức ăn làm giảm nhẹ mức độ hấp thu ban đầu nhưng không làm ảnh hưởng đến mức độ khả dụng của thuốc.
Sau khi uống nifedipine CR, nồng độ thuốc trong huyết tương tăng theo tỉ lệ có kiểm soát và đạt tới trạng thái ổn định khoảng 6 đến 12 giờ sau khi uống liều đầu. Những ngày dùng thuốc tiếp theo, nồng độ thuốc trong huyết tương tương đối hằng định ở mức này được duy trì với đỉnh thấp nhất đối với dao động xuống nhẹ trong 24 giờ dùng thuốc (0.9 – 1.2ng/ml).
Bảng dưới đây chỉ ra nồng độ đỉnh trong huyết tương (Cmax) của viên nén nifedipine CR và thời gian đạt nồng độ đỉnh (tmax).
* không rõ ràng vì thời gian nồng độ thuốc trong huyết tương ở trạng thái ổn định.
Phân bố:
Có khoảng 95% Nifedipine được gắn kết với protein huyết tương (albumin). Thời gian bán phân bố sau khi truyền tĩnh mạch được xác định là 5 đến 6 phút.
Chuyển hóa:
Sau khi uống, nifedipine được chuyển hoá ở thành ruột non và gan, chủ yếu thông qua quá trình oxy hoá. Các chất chuyển hoá của nó không có hoạt tính dược lực học. Nifedipine được bài xuất chủ yếu qua thận dưới dạng chất chuyển hoá và có khoảng 5 - 15% được bài xuất qua mật vào trong phân. Thành phần không chuyển hoá được tái hấp thu ở dạng vết (dưới 0.1%) trong nước tiểu.
Thải trừ:
Giới hạn bài tiết bán thải là từ 1.7 đến 3.4h đối với dạng bào chế quy ước (Nifedipine dạng viên nang). Thời gian bán thải của Nifedipine dạng phóng thích chậm không thể hiện tham số có ý nghĩa nồng độ ổn định trong huyết tương được duy trì trong thời gian phóng thích từ viên thuốc và hấp thu hoạt chất. Sau khi phóng thích và hấp thu liều cuối cùng, nồng độ thuốc trong huyết tương sẽ giảm xuống cùng với thời gian bán thải như đối với dạng bào chế quy ước.
Trong trường hợp chức năng thận bị tổn thương, không có thay đổi đáng kể nào được phát hiện so với người tình nguyện khỏe mạnh.
Đối với các trường hợp chức năng gan bị tổn thương, độ thanh thải toàn phần giảm xuống. Trong những trường hợp nặng có thể giảm liều dùng.
Đặc điểm
Adalat LA 30: Viên phóng thích kéo dài lồi, tròn, có vỏ bọc màu hồng, một mặt chứa lỗ được khoang bằng laser, mặt kia là hàng chữ ADALAT 30.
Adalat LA 60: Viên phóng thích kéo dài lồi, tròn, có vỏ bọc màu hồng, một mặt chứa lỗ được khoan bằng laser, mặt kia là hàng chữ ADALAT 60.
NGHIÊN CỨU TIỀN LÂM SÀNG
Dữ liệu nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy không có mối nguy hiểm đặc biệt nào trên người dựa trên các nghiên cứu quy ước về độc tính đối với liều đơn hoặc liều lặp lại, độc tính trên gen hay khả năng gây ung thư.
Độc tính rên cơ quan sinh sản:
Người ta nhận thấy nifedipine có khả năng gây quái thai trên chuột và thỏ, bao gồm các bất thường ở ngón, dị tật các chi, hở hàm ếch, hở xương ức và các dị tật ở xương sườn.
Các bất thường ở ngón và dị tật ở chi có thể là do rối loạn tưới máu tử cung, nhưng đồng thời cũng quan sát thấy ở những động vật sử dụng nifedipine đơn độc sau thời kỳ cuối của giai đoạn hình thành tổ chức.
Sử dụng nifedipine có thể liên quan tới các tác hại nhiễm độc khác nhau của phôi thai, rau trai và thai nhi, bao gồm suy bào thai (chuột và thỏ), hiện tượng nhỏ lại của rau thai và màng đệm kém phát triển (ở khỉ), gây chết phôi thai và bào thai (chuột và thỏ) và kéo dài thời gian mang thai/giảm khả năng phục hồi ở thời kỳ sơ sinh (chuột, chưa đánh giá được ở các loài khác). Tất cả các liều gây độc cho phôi thai, và bào thai, sih quái thai ở động vật đều là liều gây độc đối với con mẹ và cao gấp nhiều lần so với liều khuyên dùng ở người.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh