Bạn cần biết về kháng sinh và "siêu vi khuẩn" kháng kháng sinh

Trung tâm kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã đưa ra cảnh báo về sự phát triển của những loại vi khuẩn có khả năng chống lại những kháng sinh thế hệ mới nhất hiện nay.

Các chuyên gia nói rằng các kháng sinh hiện tại không có hiệu quả đối với loại Enterobacteriaceae kháng kháng sinh carbapenem (carbapenem-resistant Enterobacteriaceae CRE) – một chủng vi khuẩn có thể gây tử vong tới một nửa số bệnh nhân bị mắc các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng. Mặc dù CDC đã cảnh báo các chuyên gia y tế về CRE đã khoảng một thập kỷ nay, chủng vi khuẩn này đã được phát hiện trên 42 bang của Mỹ và hiện đang phát tán với tốc độ cao hơn gấp 7 lần trước kia.

Sự nguy hiểm của loại vi khuẩn này là ở chỗ nó có khả năng truyền khả năng kháng kháng sinh của nó cho những chủng vi khuẩn khác. Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng tiếp tục tiến hóa để đề kháng với những loại kháng sinh mới được bào chế ra để tiêu diệt chúng.

Theo CDC: “Điều này đồng nghĩa với việc chỉ trong tương lai gần nhiều loại vi khuẩn sẽ trở nên miễn dịch với tất cả các phương pháp điều trị và mạng sống của nhiều bệnh nhân sẽ trở nên nguy kịch mặc dù chỉ bị nhiễm khuẩn thông thường.”

Trong khi các bác sỹ và các chuyên gia y tế đang nỗ lực hết sức để chống lại sự xuất hiện ồ ạt của những chủng vi khuẩn đề kháng kháng sinh thì các bậc cha mẹ cũng nên có những hiểu biết nhất định về việc sử dụng kháng sinh trong điều trị những nhiễm khuẩn cấp thông thường cho con cái họ - như là chứng cảm lạnh bởi trong những trường hợp này kháng sinh nhiều khi không có lợi mà còn gây hại.

 

Tại sao sử dụng kháng sinh lại sinh ra nhiều chủng vi khuẩn kháng thuốc ở trẻ em

Kháng sinh được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn như đau họng, viêm phổi, viêm tai và viêm xoang… Tuy nhiên, chúng hoàn toàn không có tác dụng đối với virus gây nên các bệnh như cảm lạnh, cúm, sốt virus, tiêu chảy và nôn mửa.

Mỗi khi vi khuẩn được tiếp xúc với kháng sinh, chúng sẽ có thêm cơ hội để tự gây đột biến và trở nên đề kháng với loại thuốc đó, khiến những chủng vi khuẩn mới sau đột biến khó điều trị hơn và nguy hiểm hơn đối với người bệnh.

Hiện nay, các bác sỹ thường có xu hướng kê kháng sinh cho những nhiễm trùng nhẹ mà có thể tự khỏi không cần điều trị.

Bác sỹ Yvonne Maldonado thuộc khoa nhi và bệnh truyền nhiễm tại Stanford và là một thành hiệp của ủy ban truyền nhiễm thuộc hiệp hội nhi khoa Hoa Kỳ nói rằng trẻ em dưới 5 tuổi là đối tượng rất hay mắc các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp, nhờ vào một loạt các bằng chứng hiện có, các bác sỹ hiện nay đã biết được vấn đề hiện nay những trẻ em đó đang gặp phải là gì.

Trong quá khứ, các bác sỹ thường kê kháng sinh với suy nghĩ rằng chỉ cần tiêu diệt một số lượng nhỏ vi khuẩn ở những bộ phận như xoang mũi cũng có thể giúp điều trị các triệu chứng cảm lạnh thông thường. Ngày nay, họ biết rằng điều đó là hoàn toàn không chính xác và sử dụng quá nhiều kháng sinh có thể gây các tác dụng phụ như tiêu chảy và nôn mửa.

Theo một nghiên cứu từ năm 1997, khoảng 21% các loại kháng sinh được kê cho đối tượng người trưởng thành bị mắc các bệnh như cảm lạnh, viêm đường hô hấp trên và viêm phế quản là 3 căn bệnh mà việc sử dụng kháng sinh hầu như không có hoặc có rất ít hiệu quả. Số liệu này tương đương với 12 triệu đơn kháng sinh được kê không cần thiết và các nhà khoa học cho rằng việc dùng kháng sinh nên được kiềm chế.

Cũng tương tự như vậy, nhiều cha mẹ đưa trẻ đi khám và yêu cầu cho con họ sử dụng kháng sinh khi bị mắc các bệnh do virus.

Theo bác sỹ Maldonado: “Mọi người thường muốn sử dụng kháng sinh để làm giảm các triệu chứng trong khi nó không thực sự có hiệu quả. Khi con bạn bị ốm, bạn thường mong muốn có một loại thuốc nào đó có thể giúp trẻ khỏi bệnh, tuy nhiên đối với chứng cảm lạnh và viêm đường hô hấp trên, tốt nhất vẫn là không nên sử dụng kháng sinh.”

Mặc dù tỷ lệ các đơn kháng sinh được kê cho trẻ em đang có xu hướng giảm, tuy nhiên việc sử dụng không hợp lý có thể dẫn đến nguy cơ kháng thuốc.

Theo Hiệp hội nhi khoa Hoa Kỳ, sử dụng lặp lại hoặc sử dụng sai mục đích các loại kháng sinh là một phần nguyên nhân tạo ra các chủng siêu vi khuẩn đề kháng mạnh với kháng sinh. Đó là lý do tại sao việc không kê đơn kháng sinh trong một số bệnh lại là khuyến cáo hàng đầu trong chiến dịch “Lựa chọn thông minh” nhằm chống lại việc sử dụng một số can thiệp y khoa không cần thiết.

 

Các nguyên nhân khác gây hiện tượng kháng kháng sinh

Các nhà khoa học cũng đang tìm hiểu về việc bằng cách nào các kháng sinh sử dụng trong chăn nuôi có thể góp phần tạo nên các chủng vi sinh vật đề kháng. Chưa kể tác dụng của kháng sinh đối với hệ vi sinh đường ruột của người, một nghiên cứu bước đầu đã chỉ ra rằng trẻ em được sử dụng kháng sinh trước 6 tháng tuổi sẽ có chỉ số khối cơ thể BMI cao hơn bình thường từ khoảng 10 tháng cho tới 38 tháng tuổi.

Do vậy, kháng sinh được coi là một phần nguyên nhân dẫn tới việc sinh ra các chủng siêu vi khuẩn đề kháng cho tới tình trạng béo phì ở trẻ em. Sử dụng kháng sinh cũng cho thấy làm tăng nhẹ nguy cơ mắc hen phế quản và chàm eczema ở trẻ em, theo một nghiên cứu trên tạp chí Pediatrics.

 

Sử dụng kháng sinh hợp lý

Mặc dù các chuyên gia vẫn đang trên con đường khám phá hiệu quả về lâu dài của việc lạm dụng kháng sinh nhưng bản thân các bậc cha mẹ vẫn nên hết sức cảnh giác mỗi khi bác sỹ kê cho con mình những loại kháng sinh.

Hiệp hội nhi khoa Hoa Kỳ đưa ra các khuyến cáo về sử dụng kháng sinh dành cho cha mẹ như sau:

Khi trẻ bị ốm, không phải lúc nào cũng nhất thiết phải sử dụng kháng sinh. Không nên ép bác sỹ phải kê kháng sinh cho trẻ.

Kháng sinh chỉ có hiệu quả đối với các nhiễm trùng do vi khuẩn, nó không hề có tác dụng gì đối với các bệnh có thể do virus như viêm xoang, viêm họng, viêm phế quản.

Kháng sinh không có hiệu quả đối với cảm lạnh và cảm cúm. Khi mắc các bệnh này, trẻ nên được nghỉ ngơi tại nhà và sử dụng các biện pháp chăm sóc thông thường để giảm nhẹ triệu chứng. Cần ghi nhớ rằng triệu chứng sốt là hiện tượng bình thường của cơ thể để đối phó với nhiễm khuẩn và tạo ra kháng thể bảo vệ cho những lần mắc bệnh về sau.

Nếu trẻ buộc phải sử dụng kháng sinh, phải cho trẻ uống đúng và đủ liều được kê ngay cả khi trẻ đã cảm thấy khá hơn cũng không được dừng thuốc đột ngột. Trong hầu hết các trường hợp, các phương pháp chăm sóc điều trị tại nhà là biện pháp tốt nhất giúp trẻ hồi phục nhanh sau những đợt cảm lạnh hoặc viêm đường hô hấp trên.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top