Dược chất chính:
Telmisartan 20mg
Rabeprazol natri 10 mg
Tá dược: Microcrystalline cellulose (PH101), croscarmellose natri, meglumine, Poloxamer 188, Povidone K-30, Microcrystalline cellulose (PH102), magnesi stearate.
Loại thuốc: Thuốc tim mạch huyết áp
Điều trị cao huyết áp, có thể dùng riêng lẻ hoặc phối hợp với các thuốc điều trị cao huyết áp khác.
Cách dùng:
Dùng đường uống.
Liều dùng:
Liều dùng tùy thuộc vào từng bệnh nhân. Liều khởi đầu thường là 40mg, một lần/ngày. Liều cho đáp ứng trên huyết áp là 20-80mg.
Các trường hợp đặc biệt
Bệnh nhân suy kiệt thể tích nội mạch cần được điều trị trước khi sử dụng telmisartan hoặc phải có sự giám sát chặt chẽ của thầy thuốc khi bắt đầu dùng Telmisartan. Bệnh nhân bị tắc mật hoặc suy gan nên bắt đầu điều trị dưới sự giám sát chặt chẽ của thầy thuốc.
Hầu hết các trường hợp đạt được hiệu quả hạ huyết áp trong vòng 2 tuần và đạt hiệu quả tối đa sau 4 tuần điều trị. Khi hiệu quả hạ huyết áp chưa đạt được kết quả mong muốn, có thể dùng viên nén Telmisartan 80mg kết hợp với thuốc lợi tiểu.
Không cần điều chỉnh liều khởi đầu ở bệnh nhân lớn tuổi hoặc bệnh nhân suy thận, kể cả bệnh nhân đang chạy thận nhân tạo. Ở bệnh nhân đang thẩm phân có thể bị hạ huyết áp thế đứng, cần kiểm tra huyết áp cẩn thận ở những bệnh nhân này.
Làm gì khi dùng quá liều?
Dữ liệu liên quan đến quá liều ở người còn hạn chế. Triệu chứng quá liều viên nén Telmisartan bao gồm: hạ huyết áp, choáng váng, tim đập nhanh, tim đập chậm có thể xảy ra khi kích thích thần kinh phó giao cảm. Nếu xảy ra triệu chúng hạ huyết áp, nên tiến hành điều trị hỗ trợ. Telmisartan không bị loại khỏi cơ thể do thẩm phân máu.
Chống chỉ định ở những bệnh nhân mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
Thông tin cho bệnh nhân
Telmisartan có tác động trực tiếp trên hệ thống renin angiotensin có thể gây tổn thương thậm chí tử vong cho thai nhi khi dùng thuốc cho phụ nữ có thai, đã có vài chục trường hợp được báo cáo trên y văn thế giới về ảnh hưởng của thuốc ức chế men chuyển trên phụ nữ có thai. Khi phát hiện có thai, nên ngưng dùng thuốc càng sớm càng tốt.
Dùng thuốc có tác động trực tiếp trên hệ thống rennin-angiotensin trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối của thai kì có liên quan đến những tổn thương cho thai nhi và trẻ sơ sinh, bao gồm hạ huyết áp, trẻ sơ sinh kém phát triển xương sọ, tiểu khó, suy thận có hồi phục hoặc không hồi phục thậm chí tử vong. Mẹ có thể bị thiểu ối gây giảm chức năng thận của thai nhi; trong trường hợp này, thiểu ối có thể liên quan đến những tổn thương ở thai nhi như co cứng chi, biến dạng sọ và mặt, phổi kém phát triển. Trẻ đẻ non, chậm phát triển trong tử cung, còn ống động mạch (patent ductus arteriosus) đã được báo cáo, tuy nhiên vẫn chưa rõ là những tổn thương này có liên quan đến việc dùng thuốc hay không.
Chưa thấy có trường hợp sinh quái thai nào khi cho chuột có mang uống Telmisartan liều 50mg/kg/ngày và thỏ có mang uống liều 45mg/kg/ngày. Ở thỏ, thai chết có liên quan đến độc tính ở con mẹ (giảm tăng trọng và hấp thu thức ăn) đã gặp phải ở liều 45mg/kg/ngày [khoảng 12 lần liều khuyến cáo tối đa ở người (MRHD) 80mg dựa vào mg/m2]. Ở chuột, độc tính ở con mẹ (giảm tăng trọng và hấp thu thức ăn) đã gặp phải khi cho con mẹ uống 15mg/kg/ngày (khoảng 1,9 lần MRHD dựa vào mg/m2) trong giai đoạn cuối của thai kỳ và cho con bú, dẫn đến những tác dụng phụ trên chuột con mới sinh, bao gồm giảm khả năng sống, trọng lượng mới sinh thấp, kéo dài thai kì và giảm tăng trọng. Telmisartan có trong bào thai chuột trong giai đoạn cuối của thai kỳ và trong sữa chuột. Không thấy độc tính trên chuột và thỏ ở liều 5mg/kg/ngày và 15mg/kg/ngày, khoảng 0,64 và 3,7 lần liều khuyến cáo tối đa cho người (80mg/ngày) dựa vào mg/m2.
Ở những bệnh nhân mà hệ rennin-angiotensin bị hoạt hóa, như bệnh nhân giảm thể tích hay muối (Ví dụ: bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc lợi tiểu liều cao), thì hạ huyết áp có thể xảy ra ngay sau khi bắt đầu điều trị bằng viên nén Telmisartan. Do đó, cần phải điều chỉnh những bất thường này trước khi bắt điều trị bằng Telmisartan hoặc phải giảm liều Telmisartan và bắt đầu điều trị dưới sự giám sát chặt chẽ của thầy thuốc.
Khi bị hạ huyết áp, nên đặt bệnh nhân nằm ngửa và truyền tĩnh mạch bằng nước muối thông thường nếu cần. Trong trường hợp bị hạ huyết áp thoáng qua không chống chỉ định mà thường vẫn có thể tiếp tục điều trị khi huyết áp ổn định trở lại.