Cũng giống như một đất nước luôn có lực lượng quân đội làm nhiệm vụ phòng thủ bảo vệ, cơ thể ta có lực lượng gọi là hệ thống miễn dịch (gồm các tế bào bạch cầu, kháng thể…) luôn sẵn sàng chống trả, tiêu diệt các vi sinh vật gây bệnh xâm nhập. Khi các vi sinh vật gây bệnh xâm nhập phát triển nhanh và nhiều quá, vượt khỏi sự kiểm soát của hệ thống miễn dịch, sẽ làm cho ta mắc bệnh nhiễm trùng. Có 2 loại vi sinh vật gây bệnh phổ biến là siêu vi (còn gọi là virus) và vi khuẩn. Khi mắc bệnh nhiễm trùng, ta phải dùng thuốc gọi là kháng sinh. Nhưng kháng sinh chỉ có tác dụng trị bệnh nhiễm do vi khuẩn chứ đa phần không trị được bệnh nhiễm do virus.
Khởi đầu câu chuyện như vậy để cho thấy rằng có những điều NÊN và KHÔNG NÊN trong sử dụng kháng sinh mà người sử dụng thuốc cần biết để việc sử dụng thuốc được phát huy cao nhất lợi ích của nó.
Kháng sinh là những hợp chất trước đây có nguồn gốc thiên nhiên (tức được ly trích từ các vi sinh vật như vi nấm) và nay được tổng hợp nhân tạo, có tác dụng ức chế sự phát triển hoặc tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh. Kháng sinh là thuốc rất tốt, cho tác dụng lắm lúc được gọi là thần kỳ khi được sử dụng đúng với sự chỉ định, hướng dẫn của bác sĩ điều trị. Còn nếu sử dụng không đúng, kháng sinh sẽ gây nhiều tác hại khôn lường.
Kháng sinh gây tổn hại vi khuẩn bằng cách làm hư hại thành phần cấu tạo của chúng như lớp vỏ bảo vệ, màng trao đổi chất v.v… Tuy nhiên, về phương diện điều trị, người ta quan tâm hai loại tác dụng: tác dụng diệt khuẩn và tác dụng kìm khuẩn (kìm khuẩn có khi còn được gọi hãm khuẩn, trụ khuẩn, tỉnh khuẩn).
Kháng sinh diệt khuẩn là kháng sinh có tác dụng giết chết vi khuẩn, còn kháng sinh kìm khuẩn chỉ làm cho con vi khuẩn ngưng phát triển, không sinh sản chứ không bị tiêu diệt.
Kháng sinh kìm khuẩn được dùng khi cơ thể người bệnh còn sức, hệ thống miễn dịch còn đủ mạnh để tiêu diệt vi khuẩn bị thuốc làm cho yếu.
Nếu cơ thể người bệnh quá yếu bắt buộc phải dùng loại kháng sinh diệt khuẩn. Chỉ có thầy thuốc mới biết kháng sinh nào là diệt khuẩn, là kìm khuẩn và dùng trong trường hợp nào.
Như trên trình bày, kháng sinh chỉ được dùng trị bệnh nhiễm khuẩn chứ không dùng trị bệnh nhiễm virus (như cảm cúm). Các bệnh nhiễm khuẩn thường gặp là viêm nhiễm tai mũi họng (như viêm xoang, viêm tai giữa), viêm nhiễm đường hấp (viêm phế quản, viêm phổi), viêm đường tiết niệu, nhiễm trùng da v.v…
- Dị ứng: nhẹ là nổi mề đay, ban đỏ, ngứa, nặng có thể đưa đến sốc phản vệ gây chết người.
- Nhiễm độc các cơ quan: như độc đối với gan, thận (tetracyclin, sulfamid), độc với các tế bào máu (cloraniphenicol), thần kinh thính giác (streptomycin, gentamycin gây điếc), xương răng (tetracyclin làm hại răng trẻ con)…
- Loạn khuẩn đường ruột đưa đến tiêu chảy: đây là tác dụng phụ thường hay gặp, đối với trẻ có thể gây mất nước nghiêm trọng và bệnh thiếu vitamin do tiêu chảy bởi kháng sinh.
Đề kháng kháng sinh là tình trạng do sử dụng kháng sinh không đúng (do dùng không đủ liều, không đủ thời gian) làm cho vi khuẩn không bị tiêu diệt hoàn toàn, một số còn sống sót sẽ có khả năng đề kháng lại kháng sinh đã sử dụng, kháng sinh đã sử dụng không còn tác dụng ở những lần điều trị sau nữa.
Nên sử dụng kháng sinh theo sự chỉ định của bác sĩ điều trị, đặc biệt đối với trẻ con, khi nghi ngờ trẻ bị bệnh nhiễm khuẩn, ta nên đưa trẻ đến bác sĩ khám và chỉ định thuốc. Rõ ràng là chỉ có bác sĩ mới biết rõ khi nào sử dụng kháng sinh, cần chọn lựa loại gì để cho dùng đúng thuốc, đúng cách, đủ liều, đủ thời gian. Nên lưu ý, để tránh hiện tượng đề kháng kháng sinh nêu ở trên, cần phải dùng thuốc đúng liều lượng, đủ thời gian mà thầy thuốc đã chỉ định.
Không nên tự ý sử dụng kháng sinh
Ở nhiều nước trên thế giới, chỉ có thể mua kháng sinh ở nhà thuốc khi có đơn thuốc được ghi bởi bác sĩ. Ở nước ta trước đây, Bộ Y tế có quy định một số rất ít kháng sinh được mua không cần đơn, nhưng nói chung, tình trạng tự ý sử dụng kháng sinh bất cứ loại nào vẫn còn phổ biến. Nhiều kháng sinh thuộc loại rất mới, thuộc loại chỉ dùng hạn chế trong bệnh viện, lại bị lạm dụng dùng bừa bãi. Xin được nhắc lại, chỉ có bác sĩ điều trị mới có đủ thẩm quyền xác định loại bệnh nhiễm và loại kháng sinh dùng thích hợp.
Không nên ngưng sử dụng kháng sinh nửa chừng hoặc kéo dài sử dụng
Thông thường, một số kháng sinh dùng đủ liều cho cả đợt phải từ 7 đến 10 ngày, thậm chí có thể kéo dài hơn tùy theo loại bệnh và sự tiến triển của bệnh. Ta phải theo đúng chỉ định dùng thuốc, tức là dùng đúng liều, đủ thời gian theo đơn thuốc của bác sĩ. Đừng vì thấy bệnh có thể đỡ mà ngưng việc dùng thuốc, vi khuẩn không bị tiêu diệt hết trỗi dậy, vừa hại cá nhân người bệnh do làm bệnh tái phát, vừa hại cộng đồng vì làm gia tăng sự đề kháng thuốc kháng sinh. Còn sử dụng kéo dài coi chừng bị tai biến.
Không nên dùng lại kháng sinh trước đây đã dùng còn thừa để lại trong tủ thuốc
Bởi vì thuốc có thể quá hạn gây hại. Rất nhiều kháng sinh quá hạn dùng có độc tính rất cao (như tetracyclin quá hạn gây độc cho thận).
Không nên chỉ người khác sử dụng kháng sinh khi thấy bệnh người đó na ná giống mình
Bởi vì triệu chứng bệnh có vẻ giống nhưng nguyên nhân bệnh có thể khác. Như sốt không phải là triệu chứng của mọi bệnh nhiễm khuẩn. Hơn nữa, một kháng sinh thích hợp cho người này nhưng không thích hợp, thậm chí gây tai biến nặng nề cho người khác.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh