Mỗi viên chứa Dutasteride 0,5mg; Tamsulosin HCl 0,4mg
Điều trị bệnh phì đại lành tính tiền liệt tuyến có mức độ triệu chứng từ vừa đến nặng. Thuốc làm giảm nguy cơ bí tiểu cấp tính và phẫu thuật ở bệnh nhân phì đại lành tính tiền liệt tuyến có triệu chứng mức độ vừa đến nặng.
Nam giới trưởng thành (gồm cả người cao tuổi)
Liều khuyến cáo của DUODART là một viên nang (0,5 mg/ 0,4 mg) uống khoảng 30 phút sau cùng một bữa ăn mỗi ngày. Nên nuốt nguyên viên nang, không nên nhai hoặc mở nang ra. Tiếp xúc với chất chứa trong viên nang dutasteride trong nang vỏ cứng có thể gây nên kích ứng niêm mạc miệng – hầu họng.
Suy thận
Ảnh hưởng của suy thận đến dược động học của dutasteride-tamsulosin chưa được nghiên cứu. Tuy nhiên, dự liệu là không cần chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận (xem phần Dược động học).
Suy gan
Ảnh hưởng của suy gan đến dược động học của dutasteride-tamsulosin chưa được nghiên cứu (xem phần Cảnh báo và Thận trọng và phần Dược động học).
Chống chỉ định dùng DUODART cho bệnh nhân đã được biết quá mẫn với dutasteride, với các chất ức chế 5-alpha-reductase khác, tamsulosin hydrochloride hay với bất cứ thành phần nào của chế phẩm (Xem phần Tá dược).
Chống chỉ định dùng DUODART cho phụ nữ và trẻ em (xem phần Thai kỳ và cho con bú).
Chống chỉ định dùng DUODART cho bệnh nhân có tiền sử tụt huyết áp tư thế và bệnh nhân suy gan nặng.
Chưa có nghiên cứu về tương tác thuốc với DUODART. Các mục sau phản ánh thông tin có sẵn đối với các thành phần riêng rẽ.
Dutasteride
Các nghiên cứu chuyển hóa thuốc in vitro cho thấy dutasteride được chuyển hóa bởi isoenzyme CYP3A4 của cytochrome P450 ở người. Do đó nồng độ dutasteride trong máu có thể tăng lên khi có sự hiện diện của các chất ức chế CYP3A4.
Số liệu nghiên cứu giai đoạn II cho thấy giảm thanh thải dutasteride khi dùng đồng thời với các chất ức chế CYP3A4 như verapamil (37%) và diltiazem (44%). Ngược lại, không thấy giảm thanh thải khi dùng đồng thời dutasteride với amlodipine, một chất đối kháng kênh calci khác. Giảm thanh thải và từ đó tăng phơi nhiễm với dutasteride khi có sự hiện diện của các chất ức chế CYP3A4 ít có ý nghĩa lâm sàng do phạm vi an toàn rộng (bệnh nhân đã được sử dụng đến gấp 10 lần liều khuyến cáo trong 6 tháng), do đó không cần điều chỉnh liều.
In vitro, dutasteride không được chuyển hóa bởi các isoenzyme CYP1A2, CYP2A6, CYP2E1, CYP2C8, CYP2C9, CYP2C19, CYP2B6 và CYP2D6 của cytochrome P450 ở người.
Dutasteride không ức chế các enzyme chuyển hóa thuốc của cytochrome P450 ở người trong thử nghiệm in vitro cũng như không gây cảm ứng các isoenzyme CYP1A, CYP2B và CYP3A của cytochrome P450 ở chuột cống và chó trên thử nghiệm in vivo.
Các nghiên cứu in vitro cho thấy rằng dutasteride không thế chỗ warfarin, acenocoumorol, phenprocoumon diazepam hay phenytoin trong liên kết với protein huyết tương, các hợp chất loại này cũng không thay thế dutasteride. Các hợp chất đã được tiến hành thử nghiệm về tương tác thuốc ở người bao gồm tamsulosin, terazosin, warfarin, digoxin và cholestyramine và không quan sát thấy những tương tác dược động học hay dược lực học có ý nghĩa lâm sàng.
Mặc dù chưa tiến hành nghiên cứu tương tác đặc hiệu với các hợp chất khác nhưng khoảng 90% đối tượng trong các nghiên cứu lớn giai đoạn III đã uống dutasteride đồng thời với các thuốc khác. Không quan sát thấy các tương tác bất lợi có ý nghĩa về mặt lâm sàng trong các thử nghiệm lâm sàng khi dutasteride được dùng đồng thời với các thuốc chống tăng lipid máu, các thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE), các thuốc chẹn beta-adrenergic, các thuốc chẹn kênh calci, các corticosteroid, các thuốc lợi tiểu, các thuốc kháng viêm không steroid (NSAID), các thuốc ức chế phosphodiesterase type V và các kháng sinh nhóm quinolone.
Tamsulosin
Có nguy cơ trên lý thuyết về tác dụng hạ huyết áp bị gia tăng khi dùng đồng thời tamsulosin hydrochloride với các thuốc có thể hạ huyết áp, bao gồm các thuốc gây mê, thuốc ức chế PDE5 và các thuốc chẹn alpha-1 adrenergic khác. Không nên sử dụng DUODART kết hợp với các thuốc chẹn alpha-1 adrenergic.
Dùng đồng thời tamsulosin hydrochloride và ketoconazole (một chất ức chế mạnh CYP3A4) làm tăng Cmax và AUC của tamsulosin hydrochloride tương ứng là 2,2 và 2,8 lần. Dùng đồng thời tamsulosin hydrochloride và paroxetine (một chất ức chế mạnh CYP2D6) làm tăng Cmax và AUC của tamsulosin hydrochloride tương ứng là 1,3 và 1,6 lần. Sự gia tăng phơi nhiễm tương tự được dự đoán ở những người chuyển hóa kém CYP2D6 so với những người chuyển hóa rộng rãi CYP2D6 khi dùng đồng thời với chất ức chế mạnh CYP3A4. Ảnh hưởng của việc dùng đồng thời cả hai chất ức chế CYP3A4 và CYP2D6 với tamsulosin hydrochloride chưa được đánh giá trên lâm sàng, tuy nhiên có khả năng tăng phơi nhiễm đáng kể với tamsulosin (xem Cảnh báo và Thận trọng).
Dùng đồng thời tamsulosin hydrochloride (0,4 mg) và cimetidine (400 mg mỗi 6 giờ trong 6 ngày) làm giảm thanh thải (26%) và tăng AUC (44%) của tamsulosin hydrochloride. Nên thận trọng khi sử dụng DUODART kết hợp với cimetidine.
Chưa có nghiên cứu xác định về tương tác thuốc – thuốc giữa tamsulosin hydrochloride và warfarin. Kết quả từ các nghiên cứu hạn chế trên in vitro và in vivo không đủ để kết luận. Nên thận trọng khi dùng đồng thời warfarin và tamsulosin hydrochloride.
Trong 3 nghiên cứu, không thấy có tương tác khi dùng tamsulosin (0,4 mg trong 7 ngày, sau đó 0,8 mg trong 7 ngày) đồng thời với atenolol, enalapril hoặc nifedipine trong 3 tháng; do đó không cần chỉnh liều khi dùng đồng thời các thuốc này với DUODART.
Dùng đồng thời tamsulosin hydrochloride (0,4 mg/ngày trong 2 ngày, sau đó 0,8 mg/ngày trong 5 đến 8 ngày) và đơn liều theophylline tĩnh mạch (5 mg/kg) không làm thay đổi dược động học của theophylline; do đó không cần chỉnh liều.
Dùng đồng thời tamsulosin hydrochloride (0,8 mg/ngày) và một liều đơn furosemide tiêm tĩnh mạch (20 mg) làm giảm 11% đến 12% Cmax và AUC của tamsulosin hydrochloride, tuy nhiên những thay đổi này được dự đoán là không có ý nghĩa lâm sàng và không cần chỉnh liều.
Rối loạn hệ miễn dịch
Rất hiếm: phản ứng dị ứng, bao gồm phát ban, ngứa, mày đay, phù khu trú và phù mạch.
Rối loạn tâm thần
Rất hiếm: trạng thái trầm cảm
Rối loạn da và mô dưới da
Hiếm: Rụng lông tóc (chủ yếu rụng lông trên cơ thể), chứng rậm lông tóc
Rối loạn vú và hệ sinh sản
Rất hiếm: Đau tinh hoàn và sưng tinh hoàn.
Rung nhĩ, loạn nhịp tim, nhịp tim nhanh, khó thở, chảy máu cam, nhìn mờ, giảm thị lực, ban đỏ đa hình, viêm da bong vảy và khô miệng đã được báo cáo có liên quan đến việc sử dụng tamsulosin.
Ung thư tuyến tiền liệt
Trong một nghiên cứu kéo dài 4 năm trên hơn 8.000 nam giới tuổi từ 50 đến 75, với kết quả sinh thiết ung thư tuyến tiền liệt âm tính trước đó và giá trị PSA ban đầu trong khoảng 2,5 ng/mL và 10,0 ng/mL (nghiên cứu REDUCE), 1.517 nam giới đã được chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. Tỉ lệ mắc mới ung thư tuyến tiền liệt có Gleason 8-10 ở nhóm dùng AVODART (n=29; 0,9%) cao hơn so với nhóm dùng giả dược (n=19; 0,6%). Không tăng tỉ lệ mắc mới ung thư tuyến tiền liệt có Gleason 5-6 hoặc 7-10. Không thiết lập được mối liên hệ nhân quả giữa AVODART và ung thư tuyến tiền liệt cấp độ ác tính cao. Ý nghĩa lâm sàng của sự chênh lệch số học này thì chưa rõ. Nam giới dùng DUODART nên được đánh giá thường xuyên về nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt kể cả thử nghiệm PSA.
Trong một nghiên cứu theo dõi bổ sung trong 2 năm trên những bệnh nhân ban đầu từ nghiên cứu hóa dự phòng bằng thuốc AVODART (REDUCE), một tỷ lệ thấp mắc mới ung thư tuyến tiền liệt được chẩn đoán ở nhóm dùng dutasteride (n=14; 1,2%) và nhóm dùng giả dược (n=7; 0,7%), trong đó không có trường hợp mới nào được xác định mắc ung thư tuyến tiền liệt có Gleason 8-10.
Nghiên cứu theo dõi kéo dài (đến 18 năm) của một nghiên cứu hóa dự phòng của một thuốc ức chế 5α-reductase (5-ARI) khác (finasteride) đã cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa finasteride và giả dược về tỷ lệ sống còn toàn bộ (HR 1,02; khoảng tin cậy 95% 0,97-1,08) hoặc tỷ lệ sống sót sau khi chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt (HR 1,01; khoảng tin cậy 95% 0,85-1,20).
Kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA-Prostate Specific Antigen)
Nồng độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) là một thành phần quan trọng trong quá trình tầm soát để phát hiện ung thư tuyến tiền liệt. DUODART gây giảm lượng PSA trung bình trong huyết thanh khoảng 50% sau 6 tháng điều trị.
Bệnh nhân dùng DUODART nên đạt một giá trị PSA cơ bản mới, được thiết lập sau 6 tháng điều trị với DUODART. Khuyến cáo theo dõi thường xuyên giá trị PSA sau đó. Bất kì sự tăng PSA nào được xác nhận từ mức PSA thấp nhất trong khi đang dùng DUODART có thể là dấu hiệu hiện diện của ung thư tuyến tiền liệt hoặc của việc không tuân thủ điều trị với DUODART và nên được đánh giá cẩn thận, thậm chí cả khi các giá trị này vẫn nằm trong giới hạn bình thường đối với nam giới không dùng chất ức chế 5-ARI (xem phần Các nghiên cứu lâm sàng). Để đánh giá được giá trị PSA ở bệnh nhân dùng DUODART, nên tìm các giá trị PSA trước đó để so sánh.
Điều trị với DUODART không gây ảnh hưởng đến việc sử dụng PSA như một công cụ giúp chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt sau khi giá trị cơ bản mới đã được thiết lập.
Mức PSA huyết thanh toàn phần trở về giá trị cơ bản trong vòng 6 tháng sau khi ngừng điều trị.
Tỷ số giữa PSA tự do và PSA toàn phần vẫn hằng định ngay cả dưới tác động của DUODART. Nếu các bác sĩ lâm sàng muốn sử dụng phần trăm PSA tự do như biện pháp hỗ trợ để phát hiện ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới đang dùng liệu pháp DUODART thì không cần điều chỉnh giá trị này.
Nên thăm khám trực tràng bằng ngón tay cũng như tiến hành các đánh giá khác để phát hiện ung thư tuyến tiền liệt trên bệnh nhân BPH (Benign Prostatic Hyperplasia: phì đại lành tính tuyến tiền liệt) trước khi dùng DUODART và sau đó nên kiểm tra định kỳ.
Các biến cố bất lợi về tim mạch
Trong hai nghiên cứu lâm sàng kéo dài 4 năm, tỉ lệ mắc mới suy tim (một thuật ngữ tổ hợp của các biến cố đã được báo cáo, chủ yếu gồm suy tim và suy tim sung huyết) ở những bệnh nhân dùng phối hợp AVODART và một thuốc chẹn alpha, chủ yếu là tamsulosin, cao hơn so với những bệnh nhân không dùng liệu pháp phối hợp. Trong hai thử nghiệm này, tỉ lệ mắc mới suy tim thấp (≤1%) và khác nhau giữa các nghiên cứu. Không quan sát thấy sự mất cân bằng trong tỉ lệ mắc mới các biến cố bất lợi về tim mạch nói chung trong cả hai thử nghiệm. Không thiết lập được mối liên hệ nhân quả nào giữa AVODART (đơn trị liệu hay phối hợp với một thuốc chẹn alpha) và suy tim (xem phần Các nghiên cứu lâm sàng).
Trong một phân tích tổng hợp của 12 nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng với giả dược hoặc với thuốc so sánh (n=18.802) nhằm đánh giá các nguy cơ xuất hiện biến cố bất lợi về tim mạch khi sử dụng AVODART (bằng cách so sánh với các nhóm đối chứng), không thấy sự gia tăng nhất quán có ý nghĩa thống kê về nguy cơ suy tim (RR 1,05; khoảng tin cậy 95% 0,71, 1,57), nhồi máu cơ tim cấp (RR 1,00; khoảng tin cậy 95% 0,77, 1,30) hoặc đột quỵ (RR 1,20; khoảng tin cậy 95% 0,88, 1,64).
Ung thư vú
Hiếm có báo cáo về ung thư vú ở nam giới trên những bệnh nhân đang dùng AVODART trong các thử nghiệm lâm sàng và trong giai đoạn sau khi lưu hành thuốc. Tuy nhiên, các nghiên cứu dịch tễ đã chỉ ra rằng không có sự tăng nguy cơ phát triển ung thư vú ở nam giới với việc sử dụng chất ức chế 5-ARI (xem phần Các nghiên cứu lâm sàng). Bác sỹ cần hướng dẫn bệnh nhân của mình báo cáo kịp thời bất kỳ thay đổi nào ở mô tuyến vú của họ như khối u hoặc núm vú tiết dịch.
Hạ huyết áp
Cũng như các thuốc chẹn alpha-1 adrenergic khác, hạ huyết áp thế đứng có thể xảy ra ở bệnh nhân điều trị với tamsulosin, trong một số hiếm trường hợp có thể gây ngất.
Bệnh nhân bắt đầu điều trị với DUODART nên thận trọng ngồi hoặc nằm xuống khi có những dấu hiệu đầu tiên của hạ huyết áp thế đứng (choáng váng và chóng mặt) cho đến khi hết các triệu chứng.
Nên thận trọng khi dùng đồng thời thuốc chẹn alpha adrenergic bao gồm tamsulosin với thuốc ức chế PDE5. Các thuốc chẹn alpha adrenergic và thuốc ức chế PDE5 đều là thuốc giãn mạch mà có thể làm hạ huyết áp. Sử dụng đồng thời hai nhóm thuốc này có tiềm năng gây hạ huyết áp có triệu chứng (xem Tương tác).
Hội chứng Mống Mắt Mềm trong khi phẫu thuật (Intraoperative Floppy Iris Syndrome - IFIS)
Đã quan sát thấy Hội chứng Mống Mắt Mềm trong khi phẫu thuật (IFIS, một biến thể của hội chứng đồng tử nhỏ) trong quá trình phẫu thuật đục thủy tinh thể ở một số bệnh nhân điều trị với thuốc chẹn alpha-1 adrenergic, bao gồm cả tamsulosin. IFIS có thể dẫn tới tăng nguy cơ các biến chứng về mắt trong và sau quá trình phẫu thuật.
Trong quá trình đánh giá tiền phẫu, bác sỹ phẫu thuật đục thủy tinh thể và đội ngũ nhãn khoa nên xem xét liệu bệnh nhân được xếp lịch phẫu thuật đục thủy tinh thể có đang hoặc từng điều trị với DUODART hay không để đảm bảo rằng đã có sẵn các biện pháp thích hợp để xử lý IFIS nếu điều này xảy ra trong quá trình phẫu thuật.
Việc ngừng dùng tamsulosin 1 đến 2 tuần trước khi phẫu thuật đục thủy tinh thể được xem là có tác dụng chỉ mang tính võ đoán, lợi ích của việc ngừng và khoảng thời gian ngừng liệu pháp trước khi phẫu thuật đục thủy tinh thể vẫn chưa được thiết lập.
Viên nang bị rò rỉ
Dutasteride được hấp thu qua da, do đó phụ nữ và trẻ em nên tránh tiếp xúc với các viên nang bị rò rỉ. Nếu tiếp xúc với viên nang bị rò rỉ nên rửa vùng da tiếp xúc ngay lập tức với xà phòng và nước (xem phần Phụ nữ có thai và cho con bú).
Các chất ức chế CYP3A4 và CYP2D6
Dùng phối hợp tamsulosin hydrochloride với các chất ức chế mạnh của CYP3A4 (ví dụ ketoconazole), hoặc với các chất ức chế mạnh của CYP2D6 với một phạm vi hẹp hơn, (ví dụ paroxetine) có thế tăng phơi nhiễm của tamsulosin (xem phần Tương tác). Do đó, tamsulosin hydrochloride không được khuyến cáo cho các bệnh nhân đang sử dụng thuốc ức chế CYP3A4 mạnh và nên sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế CYP3A4 trung bình (ví dụ erythromycin), thuốc ức chế CYP2D6 mạnh hoặc trung bình, thuốc phối hợp cả chất ức chế CYP3A4 và CYP2D6, hoặc ở những bệnh nhân được biết là kém chuyển hóa CYP2D6.
Suy gan
Ảnh hưởng của suy gan đối với dược động học của Dutasteride chưa được nghiên cứu. Vì dutasteride được chuyển hóa rộng rãi và có thời gian bán thải từ 3 đến 5 tuần nên thận trọng khi dùng dutasteride cho các bệnh nhân mắc bệnh gan (xem phần Liều lượng và Cách dùng và Dược động học).