Một số loại thuốc điều trị bệnh tim

Bệnh tim là gì?

Tim là bộ phận quan trọng với chức năng bơm máu cho cơ thể con người. Tim phân bổ máu cần thiết cho sự sống, oxy và các chất dinh dưỡng đi khắp cơ thể. Bệnh mạch vành xảy ra khi các mạch máu của tim bị tổn thương hoặc hư hỏng. Bệnh mạch vành có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như dẫn đến tình trạng nhồi máu cơ tim, suy tim sung huyết hoặc loạn nhịp tim, đều có thể gây ra tử vong.

Ngoài lời khuyên về việc thay đổi lối sống, bác sĩ có thể kê thuốc cho người bệnh. Những loại thuốc này có mục đích khác nhau tùy thuộc vào việc tình trạng bệnh ảnh hưởng đặc biệt đến trái tim của bệnh nhân như thế nào. Phần lớn các loại thuốc dành cho người bị bệnh tim đã được chứng minh sẽ giúp kéo dài cuộc sống của người bệnh. Vì vậy, bên cạnh những loại thuốc đơn giản có thể giúp kiểm soát các triệu chứng hoặc làm giảm cảm giác khó chịu, có một số loại thuốc sẽ giảm nguy cơ tử vong của người bị bệnh mạch vành. Điều quan trọng là người bện cần phải tuân thủ sử dụng chính xác loại thuốc mà bác sĩ kê đơn.

Mặc dù bệnh mạch vành luôn ảnh hưởng đến trái tim của bệnh nhân, song không phải bệnh mạch vành nào cũng giống nhau và do đó, không phải bệnh nào cũng được điều trị cùng một phương pháp. Ví dụ, nhiều bệnh nhân gặp vấn đề với các cục máu đông, trong khi đó nhiều người khác lại cần hạ huyết áp. Bệnh nhân có thể sử dụng nhiều loại thuốc để điều trị bệnh của mình, và mỗi loại thuốc lại cần được sử dụng theo khuyến cáo của bác sĩ.

 

Thuốc ức chế men chuyển Angiotensin (ACE Inhibitor)

Angiotensin là một loại hormone khiến các mạch máu co lại, gây tăng huyết áp. Bằng cách hạ nồng độ angiotensin, các mạch máu sẽ giãn ra. Máu sẽ lưu thông dễ dàng hơn qua các mạch máu giãn và huyết áp sẽ giảm xuống.

Bác sĩ kê toa thuốc với thuốc ức chế men chuyển Angiotensin cho những bệnh nhân cao huyết áp hoặc suy tim, trong đó trái tim không thể bơm đủ máu đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Ngoài ra, loại thuốc này cũng rất quan trọng đối với những bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim, bởi nó có thể giúp người bệnh ngăn ngừa cơn nhồi máu cơ tim trong tương lai và giúp cơ tim phục hồi do thiếu oxy trong các cơn đau tim.

 

Thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II (ARB)

Không giống như ACE, thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II sẽ hoàn toàn ngăn chặn những tác động của hormone Angiotensin II với tim, giúp hạ huyết áp.

Bác sĩ thường kê thoa thuốc này cho những bệnh nhân suy tim sung huyết và bệnh nhân huyết áp cao. Cả ARB và ACE đều có chức năng và mục đích tương tự nhau. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, thuốc ức chế ACE có thể làm chậm tiến trình tổn thương thận đối với các bệnh nhân tiểu đường typ 1 và người mắc các bệnh về thận. Trong khi đó, ARB đã được chứng minh có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh thận đối với người mắc bệnh tiểu đường typ 2 và các loại bệnh về thận khác. Ví dụ, Losartan (Cozzar) và Valsartan (Diovan) là hai loại thuốc đối kháng thụ thể Angiotensin II.

Ngoài ra, giống như ACE, ARB được chứng minh rất có lợi trong việc tăng cường sức hồi phục cho những bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim.

 

Thuốc chống đông máu (Anticoagulants)

Trong bệnh mạch vành, một trong những vấn đề chính là các mảng xơ vữa. Những mảng bám này có thể gây ra các cục máu đông.  Máu đông trong mạch máu sẽ ngăn một phần hoặc toàn bộ dòng máu lưu thông qua mạch máu. Nếu một cục máu đông di chuyển vào phổi, nó co thể gây nghẽn mạch phổi và dẫn đến tử vong. Nếu một cục máu đông xuất hiện trong não, một cơn đột quỵ có thể xảy ra.

Mặc dù thuốc chống đông không thể phá hủy máu đông, song nó có thể ngăn ngừa các cục máu đông hình thành. Các loại thuốc thuộc nhóm thuốc chống đông bao gồm Enoxaparin (Lovenox), Heparin và Warfatin (Coumadin). Thuốc chống đông được sử dụng để ngăn gừa các cơn nhồi máu cơ tim và đột quỵ.

 

Thuốc chống kết tập tiểu cầu (Antiplatelet Agents)

Thuốc chống kết tập tiểu cầu được kê đơn sau một biến cố tim mạch như nhồi máu cơ tim. Ngoài ra, các bác sĩ cũng có thể kê thuốc này cho nhưng người đã có mảng bám trong động mạch để  ngăn ngừa nhồi máu cơ tim. Những người có tiền sử nhịp tim bất thường như rung nhĩ cũng có thể sử dụng thuốc chống kết tập tiểu cầu bởi họ có nguy cơ cao hình thành cục máu đông. Ví dụ của thuốc kháng tiểu cầu có aspirin, clopidogrel (Plavix) và prasugel (Effient).

 

Thuốc chẹn Beta (Blockers Beta)

Thuốc chẹn Beta là nhóm thuốc được sử dụng để điều trị bệnh mạch vành. Loại thuốc này có thể được sử dụng nhiều cách để ngăn loạn nhịp tim. Thuốc chẹn beta nhắm mục tiêu vào các thụ thể beta của tim. Loại thuốc này có thể kiểm soát nhịp tim, giữ cho tim không đập quá nhanh, đồng thời có tác dụng ngăn ngừa nhồi máu cơ tim và các cơn đau thứ hai xuất hiện đối với các bệnh nhân vừa bị nhồi máu cơ tim.

Bác sĩ kê toa thuốc chẹn Beta cho bệnh nhân điều trị tăng huyết áp, suy tim, đau ngực và loạn nhịp tim. Các thuốc chẹn  beta bao gồm metoprolol (Lopressor), labetalol (Trandate) và propanolol (Inderal).

 

Thuốc chẹn kênh canxi

Thuốc chẹn kênh canxi có thể được sử dụng cho nhiều bộ phận cơ thể khác nhau nhằm mục đích cụ thể, dựa trên tình trạng hoặc điều kiện sức khỏe của mỗi người. Canxi có nhiều tác động đối với cơ thể con người, một trong số đó là gây ra các cơn co thắt tim. Bằng việc làm giảm lượng canxi, thuốc chẹn canxi làm chậm tốc độ gây ra các cơn co thắt tim, làm giãn mạch máu dẫn đến hạ huyết áp.

Bác sĩ kê toa thuốc chẹn kênh canxi cho những bệnh nhân bị tăng huyết áp, đau ngực và rối loạn nhịp tim. Các loại thuốc chẹn kênh canxi gồm amlodipine (Norvasc), diltiazem (Cardizem) và nifedipine (Procardia).

 

Thuốc hạ cholesterol

Cholesterol tích tụ trong mạch máu có thể gây ra các mảng bám, làm hẹp mạch máu. Mảng bám này có thể vỡ ra và làm cản trở mạch máu, đặc biệt là trường hợp có cục máu đông hình thành xung quanh mảnh vỡ của mảng bám.

Một số loại thuốc hạ cholesterol được chứng minh làm giảm nguy cơ tử vong của những có bệnh mạch vành. Dưới đây là một số loại thuốc hạ cholesterol:

  • Staton: atorvastatin (Lipitor), pravastatin natri (Pravachol) và simvastatin (Zocor)

  • Bile acid resins: cholestyramine (Questran)

  • Các chất ức chế hấp thụ cholesterol: ezetimibe (Xetia)

  • Dẫn xuất axít fibric: fenofibrate (Tricor)

  • Axit nicotinic: niacin (Niacor, Nicolar)

 

Thuốc Digitalis

Thuốc Digitalis hoạt động nhằm tăng sự co bóp của tim. Mặc dù loại thuốc này thường được kê đơn để điều trị các loại bệnh tim mạch khác như bệnh cơ tim, song người bị bệnh mạch vành cũng vẫn có thể sử dụng. Nhờ bơm mạnh hơn, trái tim có thể bơm được nhiều máu hơn trong một nhịp riêng lẻ.

Thuốc Digitalis điều trị cho bệnh nhân suy tim, trong trường hợp những người này không thể sử dụng thuốc ức chế ACE và thuốc lợi tiểu. Ngoài ra, loại thuốc này được sử dụng để điều trị rối loạn nhịp tim, bao gồm rung nhĩ. Digoxin (Lanoxin) là một ví dụ của thuốc Digitalis.

Nhóm thuốc Nitrat

Nitrat làm giãn mạch máu, giúp máu lưu thông một cách dễ dàng hơn. Các bác sĩ thường kê toa có Nitrat để điều trị đau thắt ngực và giảm các triệu chứng suy tim. Các loại thuốc thuộc nhóm này bao gồm Nesiritide (Natrecor) và hydralyzine (Apresoline). Thuốc Nitrat có thể sử dụng dưỡi dạng thuốc truyền tĩnh mạch, thuốc bôi, thuốc đặt dưới lưỡi hoặc dạng thuốc viên truyền thống.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top