Những lợi ích khi phối hợp kháng sinh
Trên thực tế là nhiều trường hợp dùng một kháng sinh không thể đẩy lui được bệnh mà phải dùng tới sự phối hợp hai hay ba loại thuốc khác nhau.
Về mặt tác dụng điều trị thì cũng có trường hợp dùng hai thuốc là tốt hơn một thuốc. Vì xung quanh chúng ta có quá nhiều vi khuẩn, nhiều loại khác nhau do đó có nhiều mầm bệnh khác nhau có thể gây bệnh trên cùng một cơ quan. Nhưng thực tế không có một thuốc nào là đa năng có thể cùng lúc tiêu diệt được các loại vi khuẩn đó. Mỗi loại chỉ có một cơ chế tác dụng nhất định, có tác dụng tốt với một số loại mầm bệnh nhất định. Việc dùng phối hợp thuốc sẽ làm tăng phổ tác dụng với các vi khuẩn gây hại.
Ví dụ, viêm phổi và viêm đường hô hấp nói chung thường do nhóm vi khuẩn tụ cầu, liên cầu gây ra, nhưng cũng có khi là do sự có mặt của vi khuẩn E.coli hay Klebsiella. Nếu chúng ta sử dụng kháng sinh nhóm beta lactam thì thường có công hiệu mạnh với vi khuẩn tụ cầu, liên cầu. Nhưng nếu chúng ta phối hợp với aminoglycosid thì lại phủ phổ tác dụng lên cả những vi khuẩn đường ruột khi mà chúng ta chưa có điều kiện xác định đâu là vi khuẩn gây bệnh.
Hiệu quả của việc phối hợp kháng sinh còn ở chỗ hai thuốc có khi làm tăng hiệu quả tác dụng của nhau. Một ví dụ điển hình của việc này là việc phối hợp giữa kháng sinh sulfamid với kháng sinh nhóm trimethoprim. Cả hai kháng sinh này đều là những kháng sinh mới được tìm ra so với những kháng sinh “đàn anh” như penicillin. Sulfamid có tác dụng ức chế cạnh tranh với PABA do đó nó làm giảm tổng hợp dihydrofolat, một khâu quan trọng trong tổng hợp DNA. Trong khi đó, trimethoprim có tác dụng ức chế dihydrofolat reductase, một enzym phân hủy dihydrofolat. Nếu dùng hai thuốc này phối hợp với nhau thì người ta thấy hiệu lực tác dụng sẽ được tăng lên 100 lần.
Tác dụng phụ không mong muốn khi phối hợp kháng sinh
Nhược điểm của việc dùng đa kháng sinh trong điều trị là đa trị liệu thì cũng đa tác hại. Việc dùng một thuốc cũng đã gây ra cho người sử dụng những tác hại, nếu sử dụng đồng thời nhiều thuốc thì đương nhiên tác hại sẽ là cộng hưởng.
Chẳng hạn như kháng sinh nhóm aminoglycosid là nhóm thuốc gây ra tác hại đầy hơi, buồn nôn, nôn. Nếu sử dụng thêm metronidazol, một thuốc gây ra cảm giác mệt mỏi sẽ khiến người bệnh chịu đựng gấp hai lần những tác dụng không mong muốn này. Rõ ràng, sự phối hợp thuốc trong trường hợp này là không tốt và người bệnh khó mà đi đến cùng điều trị.
Phức tạp hơn là trường hợp kết hợp thuốc mà cơ chế tác dụng lại không tương hỗ với nhau. Ví dụ như sự phối hợp giữa penicillin và tetracycline để điều trị viêm màng não.
Tetracycline là thuốc làm ức chế tiểu phân 30S của riboxom trong quá trình tổng hợp protein, nhưng nó lại bị cản trở tác dụng bởi penicillin. Do đó mà chúng ta phải tránh phối hợp hai kháng sinh này với nhau.
Nên phối hợp kháng sinh khi nào?
Thông thường, việc dùng phác đồ đa trị liệu chỉ được áp dụng khi bệnh nhân có nguy cơ bị nhiễm khuẩn nặng hay nhiễm khuẩn lan tràn mà chúng ta chưa thể xác định ngay được loại vi khuẩn nào gây bệnh. Trong lúc nghi ngờ, người ta có thể đưa ra nhiều phán đoán loại vi khuẩn cùng gây bệnh.
Do đó mà khi bị nhiễm khuẩn phổi nặng thì sự phối hợp giữa một kháng sinh dòng ß-lactam như co-amoxiclav, cefuroxime, cefotaxime hay ceftriaxone với một kháng sinh dòng macrolide như clarithromycin được khuyên dùng vì chúng làm mạnh mẽ hóa tác dụng của nhau.
Sự phối hợp này mang lại hiệu quả là vừa “đánh” vào những vi khuẩn thông thường của đường hô hấp và vừa đánh vào những vi khuẩn kém điển hình như legionella pneumophila, mycoplasma pneumoniae.
Với các nhiễm trùng ổ bụng thì đa phần là do sự đồng nhiễm của vi khuẩn ái khí và kỵ khí. Vì vậy, người ta thường khuyên là nên sử dụng kháng sinh metronidazole kết hợp với một kháng sinh phổ rộng như cefotaxime, gentamicin, ciprofloxacin để có thể bao phủ hết mầm bệnh có thể là nguyên nhân gây bệnh.
Ta cần chú ý là nhiễm trùng ổ bụng (hay chính xác hơn là viêm phúc mạc) là một nhiễm trùng nặng mà nếu không xử trí tốt có thể dẫn đến tử vong. Với các nhiễm trùng quan trọng như viêm màng trong tim thì việc dùng đa thuốc cũng thường được chỉ định ngay từ đầu. Ví dụ như sự kết hợp giữa penicillin và gentamicin để điều trị viêm nội tâm mạc do cầu khuẩn đường ruột. Sự kết hợp này là có hiệu lực tốt hơn so với khi dùng đơn độc mỗi penicillin. Phác đồ này cũng có giá trị khi chúng ta điều trị viêm nội tâm mạc do tụ cầu khuẩn.
Một tác dụng vô cùng lớn của phối hợp thuốc là chống được kháng thuốc mà điều trị lao là một ví dụ sinh động nhất. Khi sử dụng isoniazid thì tỷ lệ lao kháng thuốc là 1/106 còn với rifampicin tỷ lệ kháng thuốc là 1/108 mầm bệnh.
Nhưng khi chúng ta kết hợp lại thì tỷ lệ kháng thuốc được hạ thấp đến cách biệt. Để hạ thấp tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc do lao và điều trị thành công thì một phác đồ gồm 3 – 4 thuốc là bắt buộc. Điều này như là công thức bất di bất dịch.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh