✴️ Tegretol 200 - Italy (P1)

Nội dung

THÀNH PHẦN

Hoạt chất

Carbamazepine 200mg

Một số hàm lượng và dạng bào chế có thể không có sẵn ở tất cả các nước.

Tá dược

Viên nén: Aerosil 200 (silic dạng keo khan), Avicel PH 101 (cellulose), magnesi stearat, Nymcel ZSB - 10 thay đổi (carmellose nattri, thể ít).

 

DƯỢC LỰC HỌC

Là một thuốc chống động kinh, phổ hoạt động của nó bao gồm: cơn động kinh cục bộ (đơn thuần và phức hợp), có hoặc không phát triển toàn thể thứ phát, cơn động kinh co cứng-giật rung phát triển toàn thể, cũng như kết hợp của các dạng động kinh này.

Trong các nghiên cứu lâm sàng, Tegretol được dùng dưới dạng đơn trị liệu cho những bệnh nhân bị động kinh - đặc biệt là trẻ em và thiếu niên - đã được báo cáo có tác dụng hướng tâm thần, bao gồm tác dụng tích cực trên các triệu chứng lo âu và trầm cảm cũng như làm giảm sự dễ bị kích thích và gây hấn. Trong một số nghiên cứu, các tác dụng không chắc chắn hoặc không có tác dụng về sự nhận thức và biểu hiện tâm thần-vận động, còn tùy thuộc vào liều dùng, đã được báo cáo. Trong các nghiên cứu khác, đã quan sát thấy tác dụng có lợi đối với sự chú ý, nhận thức/trí nhớ.

Là một thuốc hướng tâm thần, Tegretol có hiệu quả lâm sàng trong một số rối loạn thần kinh, ví dụ phòng ngừa các cơn đau kịch phát trong đau dây thần kinh sinh ba tự phát và thứ phát; ngoài ra thuốc còn được sử dụng để giảm đau do thần kinh trong các tình trạng khác nhau, bao gồm bệnh tabet, dị cảm sau chấn thương và đau dây thần kinh sau nhiễm herpes; trong hội chứng cai rượu, thuốc làm giảm ngưỡng co giật và cải thiện các triệu chứng do cai rượu (ví dụ quá kích động, run, dáng đi yếu); trong đái tháo nhạt trung ương, Tegretol làm giảm thể tích nước tiểu và giảm cảm giác khát.

Là một thuốc hướng tâm thần, Tegretol đã chứng tỏ có hiệu quả lâm sàng trong các rối loạn cảm xúc, tức là điều trị cơn hưng cảm cấp cũng như điều trị duy trì các rối loạn cảm xúc lưỡng cực (hưng cảm-trầm cảm), khi được dùng dưới dạng đơn trị liệu hoặc kết hợp với các thuốc an thẩn, thuốc chống trầm cảm, hoặc lithium, trong rối loạn phân liệt cảm xúc dạng kích động và cơn hưng cảm dạng kích động kết hợp với các thuốc an thần khác và trong các giai đoạn tái phát theo chu kỳ nhanh.

 

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Hấp thu:

Viên nén carbamazepine được hấp thu hầu như hoàn toàn nhưng tương đối chậm. Viên nén thông thường và viên nén nhai có nồng độ đỉnh trong huyết tương của thuốc không đổi trong vòng 12 giờ và 6 giờ sau khi dùng các liều uống theo thứ tự tương ứng. Với dạng hỗn dịch uống, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong vòng 2 giờ và với dạng thuốc đạn nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong vòng trung bình 12 giờ. Về lượng hoạt chất được hấp thu, không có sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng giữa các các dạng bào chế dùng đường uống. Sau khi dùng một liều đơn 400mg carbamazepine (viên nén), nóng độ đỉnh của carbamazepine dạng không biến đổi trong huyết tương khoảng 4,5microgam/ml.

Khi dùng viên nén CR liều duy nhất và liều lặp lại, các viên nén CR tạo ra nồng độ đỉnh của hoạt chất trong huyết tương khoảng 25% thấp hơn so với viên nén thông thường; nồng độ đỉnh đạt được trong vòng 24 giờ. Viên nén CR đem lại sự giảm chỉ số biến động có ý nghía thống kê, nhưng không làm giảm nồng độ thấp nhất trong huyết tương (Cmin có ý nghĩa ở trạng thái ổn định. Sự biến động nồng độ trong huyết tương với chế độ liều dùng 2 lần/ngày là thấp. Sinh khả dụng của viên nén Tegretol CR khoảng 15% thấp hơn so với sinh khả dụng của các dạng bào chế dùng đường uống khác.

Khi dùng thuốc đạn, lượng carbamazepine được hấp thu khoảng 25% thấp hơn so với viên nén. Không có sự thay đổi chỉ số biến động, nhưng sự giảm nhẹ nồng độ cao nhất trong huyết tương (Cmax) và nống độ thấp nhất trong huyết tương (Cmin) so với viên nén được tìm thấy ở trạng thái ổn định. Đối với các liều đến 300mg carbamazepine, khoảng 75% tổng lượng hấp thu đến được tuần hoàn máu toàn thân trong vòng 6 giờ sau khi sử dụng. Kết quả dẫn đến khuyến cáo là liều tối đa hàng ngày được giới hạn ở 250mg, 4 lần/ngày.

Nồng độ carbamazepine trong huyết tương ở trạng thái ổn định đạt được trong vòng khoảng 1-2 tuần, phụ thuộc vào sự tự cảm ứng bởi carbamazepine ở từng cá thể và cảm ứng ở các cá thể khác nhau do các thuốc gây cảm ứng enzym, củng như phụ thuộc vào tình trạng trước khi điều trị, liều dùng và thời gian điều trị.

Nồng độ carbamazepine trong huyết tương ở trạng thái ổn định được xem là "nồng độ điều trị" thay đổi đáng kể giữa các bệnh nhân: đối với đa số bệnh nhân, nồng độ từ 4-12microgam/ml tương ứng với 17-50micromol/lít đã được báo cáo. Nồng độ carbamazepine-10,11-epoxid (chất chuyển hóa có hoạt tính dược lý): khoảng 30% nồng độ carbamazepine.

Dùng thức ăn không ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ và mức độ hấp thu, bất kể dạng bào chế của Tegretol.

Phân bố:

Giả sử sự hấp thu cabamazepine hoàn toàn, mức thể tích phân bố biểu kiến từ 0,8-1,9lít/kg.

Carbamazepine đi qua nhau thai.

Carbamazepine gắn kết với protein huyết thanh ở mức độ 70 - 80%. Nồng độ của chất không biến đổi trong dịch não tủy và nước bọt phản ánh phần không gắn kết với protein trong huyết tương (20 - 30%). Nồng độ trong sữa mẹ được tìm thấy tương đương với 25 - 60% nồng độ tương ứng trong huyết tương.

Biến đổi sinh học/Chuyển hóa:

Carbamazepine được chuyển hóa ở gan, tại đó đường biến đổi sinh học epoxid là đường quan trọng nhất, tạo ra chất dẫn xuất 10,11-transdiol và glucuronid là các chất chuyển hóa chính. Cytochrom P4503A4 đã được xác định là dạng đồng đẳng chính chịu trách nhiệm đối với sự tạo thành carbamazepine-10,11 epoxid có hoạt tính dược lý từ carbamazepine. 9-hydroxy-methyl-10-cabamoyl acridan là một chất chuyển hóa nhỏ liên quan với đường này. Sau khi uống một liểu đơn carbamazepine, khoảng 30% thuốc xuất hiện trong nước tiểu dưới dạng các sản phẩm cuối cùng qua đường epoxid. Các đường biến đổi sinh học quan trọng khác đối với carbamazepine dẫn đến nhiều loại hợp chất được monohydroxyl hóa khác nhau, cũng như đối với N-glucuronid của carbamazepine được tạo ra bởi UGT2B7.

Thải trừ:

Thời gian bán thải của carbamazepine dạng không đổi trung bình khoảng 36 giờ sau khi uống một liều đơn, trong khi sau khi dùng lặp lại, trung bình chỉ từ 16-24 giờ (sự tự cảm ứng của hệ thống mono-oxygenase ở gan), phụ thuộc vào thời gian dùng thuốc, ở những bệnh nhân đang điều trị đồng thời với các thuốc gây cảm ứng enzym gan khác (ví dụ phenytoin, phenobarbiton), đã ghi nhận các trị số thời gian bán thải trung bình từ 9 - 10 giờ.

Thời gian bán thải trung bình của chất chuyển hóa 10,11-epoxid trong huyết tương khoảng 6 giờ sau khi dùng chính các liều đơn epoxid đường uống.

Sau khi uống một liều đơn carbamazepine 400mg, 72% liều dùng được bài tiết trong nước tiểu và 28% trong phân. Trong nước tiểu, khoảng 2% liều này được phục hồi dưới dạng thuốc không biến đổi và khoảng 1 % dưới dạng chất chuyển hóa 10,11-epoxid có hoạt tính dược lý.

 

CHỈ ĐỊNH

Bệnh động kinh

Cơn động kinh cục bộ phức hợp hoặc đơn thuần (có hoặc không mất ý thức) có hoặc không phát triển toàn thể thứ phát.

Cơn động kinh co cứng - giật rung phát triển toàn thể. Các dạng động kinh hỗn hợp.

Tegretol thích hợp cho cả đơn trị liệu và trị liệu phối hợp.

Tegretol thường không hiệu quả trong cơn vắng ý thức (động kinh cơn nhỏ) và cơn động kinh giật rung cơ.

Cơn hưng cảm cấp và điểu trị duy trì các rối loạn cảm xúc lưỡng cực để phòng ngừa hoặc làm giảm sự tái phát.

Hội chứng cai rượu.

Đau dây thần kinh sinh ba tự phát và đau dây thần kinh sinh ba do bệnh xơ cứng rải rác (điển hình hoặc không điển hình). Đau dây thần kinh lưỡi-hầu tự phát.

Bệnh thần kinh do đái tháo đường gây đau.

Đái tháo nhạt trung ương. Đa niệu và khát nhiều có nguồn gốc hormon thần kinh.

 

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Đã biết quá mẫn với carbamazepine hoặc các thuốc có liên quan về cấu trúc (ví dụ thuốc chống trầm cảm 3 vòng) hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc.

Bệnh nhân bị bloc nhĩ thất

Bệnh nhân có tiền sử suy tủy xương

Bệnh nhân có tiền sử rối loạn chuyển hóa porphyrin gan (ví dụ rối loạn chuyển hóa porphyrin cấp từng cơn, rối loạn chuyển hóa porphyrin hỗn hợp, rối loạn chuyển hóa porphyrin biểu hiện da muộn).

Chống chỉ định sử dụng Tegretol kết hợp với thuốc ức chế monoamine - oxidase (MAOI).

 

LIỀU DÙNG

Bệnh động kinh.

Khi có thể, nên kê đơn Tegretol dưới dạng đơn trị liệu.

Nên bất đầu điều trị với liều thấp mỗi ngày, tăng từ từ cho đến khi đạt được hiệu quả tối ưu.

Nên điều chỉnh liều carbamazepine theo nhu cầu của từng bệnh nhân để đạt được sự kiểm soát đầy đủ các cơn động kinh. Xác định nồng độ trong huyết tương có thể giúp xác định liều tối ưu.Trong điều trị bệnh động kinh, liều carbamazepine thường đòi hỏi tổng nồng độ carbamazepine trong huyết tương khoảng 4 - 12microgam/ml (17 - 50micromol/lít).

Khi cộng thêm Tegretol vào điều trị chống động kinh đang dùng, nên thực hiện điều này từ từ trong khi duy trì, hoặc nếu cần thiết, điều chỉnh liều của thuốc chống động kinh khác.

Nhóm bệnh nhân mục tiêu nói chung / Người lớn

 

LIỀU DÙNG TRONG BỆNH ĐỘNG KINH

Các dạng uống

Khởi đầu dùng 100mg đến 200mg, 1 lần hoặc 2 lần/ngày; nên tăng liều dùng từ từ - nói chung ở mức 400mg, 2 - 3 lần/ngày - cho đến khi đạt được đáp ứng tối ưu. Ở một số bệnh nhân, liều 1600mg hoặc ngay cả 2000mg/ngày có thể thích hợp.

Thuốc đạn

Khi sử dụng dạng thuốc đạn thay cho các dạng uống, liều tối đa hàng ngày được giới hạn chỉ đến 1000mg (250mg, 4 lẩn/ngày, cách nhau 6 giờ).

Hiện chưa có dữ liệu lâm sàng về việc sử dụng thuốc đạn trong các chỉ định khác ngoài bệnh động kinh.

Liều dùng trong cơn hưng cảm cấp và điều trị duy trì các rối loạn cảm xúc lưỡng cực

Mức liều: khoảng 400 - 1600mg/ngày, liều dùng thông thường là 400 - 600mg/ngày chia làm 2 - 3 lần. Trong cơn hưng cảm cấp, nên tăng liều khá nhanh, trong khi khuyến cáo dùng từng liều tăng nhỏ trong điều trị duy trì các rối loạn lưỡng cực để bảo đảm sự dung nạp tối ưu.

Liều dùng trong hội chứng cai rượu

Liều trung bình: 200mg, 3 lần/ngày. Trong trường hợp nặng liều có thể tăng lên trong vài ngày đầu (ví dụ đến 400mg, 3 lần/ngày). Lúc bắt đầu điều trị các biểu hiện nặng do cai rượu, nên kết hợp Tegretol với các thuốc an thần - gây ngủ (ví dụ clomethiazol, chlordiazepoxid). Sau khi giai đoạn cấp đã giảm, có thể tiếp tục dùng Tegretol dưới dạng đơn trị liệu.

Liều dùng trong đau dây thần kinh sinh ba

Liều khởi đầu 200 - 400mg nên tăng từ từ mỗi ngày cho đến khi hết đau (thông thường là 200mg, 3 - 4 lần/ngày). Sau đó nên giảm liều dần cho đến mức liều duy trì thấp nhất có thể được. Liều tối đa được khuyến cáo là 1200mg/ngày. Khi đã đạt được giảm đau, nên cố gắng ngừng điều trị dần dần, cho đến khi cơn đau khác xảy ra.

Liều dùng trong bệnh thần kinh do đái tháo đường gây đau

Liều trung bình: 200mg, 2 - 4 lần/ngày.

Liều dùng trong đái tháo nhạt trung ương

Liều trung bình cho người lớn: 200mg, 2 - 3 lần/ngày. Ở trẻ em nên giảm liều tương ứng với tuổi và thể trọng của trẻ.

Các nhóm bệnh nhân đặc biệt

Suy thận / Suy gan

Hiện không có dữ liệu về dược động học của carbamazepine ở bệnh nhân suy chức năng gan hoặc suy chức năng thận.

Bệnh nhi / Trẻ em và thiếu niên

Liều dùng trong bệnh động kinh

Các dạng uống

Đối với trẻ em từ 4 tuổi trở xuống, khuyến cáo dùng liều khởi đầu 20 - 60mg/ngày, tăng lên từng 20mg đến 60mg, 2 ngày một lần. Đối với trẻ em trên 4 tuổi, có thể bắt đầu điều trị với 100mg/ngày, tăng lên từng 100mg cách nhau mỗi tuần.

Liều duy trì: 10 - 20mg/kg thể trọng/ngày chia làm nhiều lần, ví dụ:

Dưới 1 tuổi: 100 - 200mg/ngày (= 5 - 10ml = 1 - 2 đơn vị đong hỗn dịch uống)

1 - 5 tuổi: 200 - 400mg/ngày (= 10 - 20ml = 2 x 1 - 2 đơn vị đong hỗn dịch uống)

6 - 10 tuổi: 400 - 600mg/ngày (= 20 - 30ml = 2 - 3 x 2 đơn vị đong hỗn dịch uống)

11 - 15 tuổi: 600 -1000mg/ngày (= 30 - 50ml = 3 x 2 - 3 đơn vị đong hỗn dịch uống)

(thêm một đơn vị đong 5ml trong trường hợp dùng 1000mg)

> 15 tuổi: 800 - 1200mg/ngày (giống như liều người lớn).

Liều tối đa được khuyến cáo

Dưới 6 tuổi: 35mg/kg/ngày

6 - 15 tuổi: 1000mg/ngày

> 15 tuổi: 1200mg/ngày.

Thuốc đạn

Khi sử dụng dạng thuốc đạn thay cho các dạng uống, liều tối đa hàng ngày được giới hạn chỉ đến 1000mg (250mg, 4 lần/ngày, cách nhau 6 giờ).

Hiện chưa có dữ liệu lâm sàng về việc sử dụng thuốc đạn trong các chỉ định khác ngoài bệnh động kinh.

Liều dùng trong đái tháo nhạt trung ương

Ở trẻ em nên giảm liều tương ứng với tuổi và thể trọng của trẻ. Liều trung bình cho người lớn: 200mg, 2-3 lần/ngày.

Người cao tuổi

Liều dùng trong đau dây thần kinh sinh ba

Do tương tác thuốc và dược động học của thuốc chống động kinh khác nhau, cẩn thận trọng khi chọn liều Tegretol cho bệnh nhân cao tuổi. Ở bệnh nhân cao tuổi, khuyến cáo dùng liều khởi đầu 100mg, 2 lần/ngày. Liều khởi đầu 100mg, 2 lần/ngày nên tăng từ từ mỗi ngày cho đến khi hết đau (thông thường là 200mg, 3 - 4 lần/ngày). Sau đó nên giảm liều dần cho đến mức liều duy trì thấp nhất có thể được. Liều tối đa được khuyến cáo là 1200mg/ngày. Khi đã đạt được giảm đau, nên cố gắng ngừng điều trị dần dần, cho đến khi cơn đau khác xảy ra.

Cách dùng

Viên nén và hỗn dịch uống (lắc trước khi dùng) có thể uống trong khi ăn, sau khi ăn hoặc giữa các bữa ăn. Nên dùng các viên nén với một ít thức uống và phần còn lại có thể có của viên nén nhai nên được nuốt với một ít thức uống.

Viên nén CR (cả viên hoặc nếu được kê đơn chỉ nửa viên) nên nuốt không nhai với một ít thức uống. Viên nén nhai và hỗn dịch uống (1 đơn vị đong = 5ml = 100mg; nửa đơn vị đong = 2,5ml = 50mg) đặc biệt thích hợp đối với những bệnh nhân khó nuốt viên thuốc hoặc cần điều chỉnh cẩn thận liều ban đầu.

Do kết quả của sự phóng thích chậm, có kiểm soát của hoạt chất từ viên nén CR, thuốc này được dùng theo liều 2 lần/ngày.

Vì liều Tegretol hỗn dịch uống được dùng sẽ tạo ra nồng độ đỉnh cao hơn so với cùng liều tính theo mg ở dạng viên nén, nên bắt đầu với liều thấp và tăng liều từ từ để tránh các phản ứng bất lợi.

Khi chuyển bệnh nhân từ viên nén Tegretol sang hỗn dịch uống: điều này nên được thực hiện bằng cách dùng cùng số mg mỗi ngày với các liều nhỏ hơn, thường xuyên hơn (ví dụ hỗn dịch uống 3 lần/ngày thay vì viên nén 2 lần/ngày).

Khi chuyển bệnh nhân từ viên nén thông thường sang viên nén CR: kinh nghiệm lâm sàng cho thấy là ở một số bệnh nhân, liều dùng ở dạng viên nén CR có thể cần phải tăng lên.

Khi chuyển bệnh nhân từ các công thức dạng uống sang thuốc đạn: liều dùng ở dạng thuốc đạn cần được tăng lên khoảng 25% và được dùng chia ra các liều nhỏ, đến tối đa 250mg, 4 lần/ngày, cách nhau 6 giờ. Kinh nghiệm trong việc sử dụng dạng thuốc đạn còn hạn chế chỉ trong 7 ngày như một liệu pháp thay thế ở những bệnh nhân tạm thời không thể điều trị bệnh động kinh bằng đường uống, ví dụ ở những người sau phẫu thuật hoặc người bị mất ý thức.

 

Xem tiếp phần 2

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top