Việc ra đời nhóm kháng sinh này đã đem lại hy vọng lớn lao để chiến đấu với các vi khuẩn nguy hiểm đang có xu hướng ngày càng đề kháng với các kháng sinh quen thuộc. Người ta phân loại quinolon dựa vào đặc tính dược lý và theo thời gian phát hiện.
Bao gồm các dẫn chất không gắn fluor, điển hình là acid nalidixic và cinoxacin có phổ kháng khuẩn hẹp chỉ được dùng trong điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu – sinh dục không biến chứng.
Acid nalidixic (negram) được phát hiện một cách tình cờ vào năm 1962 trong quá trình điều chế thuốc sốt rét cloroquin. Sau đó, người ta cũng đưa vào sử dụng một số thuốc tương tự như puram, purin, eracine… Hiện nay, việc sử dụng những thuốc này bị hạn chế do vi khuẩn kháng thuốc cao.
Kháng sinh quinolon thế hệ 2 hay còn gọi là fluoroquinolon (FQ), đặc trưng bởi việc thêm nguyên tử fluor vào cấu trúc quinolon, được đưa ra thị trường từ nǎm 1985.
ác thuốc thế hệ 2 bao gồm ciprofloxacin, enoxacin, grepafloxacin, lomefloxacin, norfloxacin và ofloxacin có dược lực học tiến bộ hơn thuốc thế hệ đầu và có tác dụng chống nhiều loại vi sinh vật gây nhiễm khuẩn gram âm và tác dụng toàn thân.
So với các quinolon thế hệ 1, các FQ có ít tác dụng phụ hơn và khắc phục được tình trạng vi khuẩn nhanh chóng kháng thuốc. Việc sử dụng trên lâm sàng bao gồm nhiễm khuẩn tiết niệu và viêm đài bể thận không biến chứng và có biến chứng, bệnh lây qua đường tình dục, viêm tuyến tiền liệt, nhiễm khuẩn da và mô mềm.
Một số thuốc điển hình như norfloxacin là thuốc đầu tiên thuộc nhóm này được đưa ra thị trường nǎm 1986 và có thời gian bán thải ngắn nhất trong số các FQ hiện có. Nói chung, thuốc được dành để điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu vì thuốc có sinh khả dụng đường uống kém.
Ciprofloxacin là FQ có hiệu lực mạnh và xâm nhập tốt vào xương, do đó thuốc có thể thay thế cho các kháng sinh không dùng đường uống để điều trị viêm xương tủy do vi khuẩn nhạy cảm gây ra.
Ofloxacin là thuốc được bài xuất nguyên vẹn qua thận nhiều nhất.
Ciprofloxacin và ofloxacin cũng là FQ thế hệ 2 có chỉ định rộng và có ở cả dạng uống, tiêm tĩnh mạch, tra mắt, nhỏ tai để điều trị viêm tai ngoài và viêm tai giữa.
Hiện nay, ciprofloxacin và ofloxacin thường được dùng trong điều trị nhiễm lao phức tạp ở bệnh nhân AIDS và phối hợp với các thuốc khác trong điều trị lao kháng thuốc. Enoxacin tác động mạnh nhất đến chuyển hóa gan của các thuốc khác.
Kháng sinh quinolonbao thế hệ 3 gồm gatifloxacin, levofloxacin, moxifloxacin và sparfloxacin. Levofloxacin là đồng phân levo và là thành phần hoạt động hơn của hỗn dược ofloxacin triệt quang (raxem). Các FQ thế hệ 3 có hoạt phổ rộng chống vi khuẩn gram dương, được chỉ định trong viêm phổi cộng đồng, viêm xoang cấp và đợt cấp của viêm phế quản mạn.
Gatifloxacin cũng được cấp phép dùng điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu và lậu. Cả gatifloxacin và levofloxacin đều có ở dạng uống và tiêm tĩnh mạch. Levofloxacin còn có ở dạng nhỏ mắt để điều trị viêm kết mạc do vi khuẩn.
Kháng sinh quinolon thế hệ 4 bao gồm trovafloxacin, alatrofloxacin. Trovafloxacin là hoạt chất dùng đường uống, còn alatrofloxacin là tiền chất của trovafloxacin được dùng đường tĩnh mạch.
Trovafloxacin có tác dụng rõ rệt chống vi khuẩn kị khí trong khi vẫn giữ được hoạt tính chống gram âm và gram dương của các FQ thế hệ 3. Chúng cũng có tác dụng tương đương ciprofloxacin.
Trovafloxacin là kháng sinh uống đầu tiên dùng điều trị dự phòng cho bệnh nhân mổ vì nồng độ trong máu khi uống gần bằng khi tiêm. Nó được giới hạn sử dụng trong các nhiễm khuẩn nặng nguy hiểm tính mạng hoặc đe dọa phải cắt chi, do thuốc có thể gây những tác dụng phụ nặng trên gan.
Cần chú ý không kết hợp kháng sinh nhóm FQ với dùng kháng sinh tetracyclin. Các chất chống acid (trong bệnh loét dạ dày – tá tràng), sắt bổ sung và ngay cả các vitamin cùng với muối khoáng như kẽm và calci có thể gắn và làm giảm tới 90% sinh khả dụng đường uống của kháng sinh quinolon.
Những thuốc có chứa cation hóa trị 2 và hóa trị 3 như sucralfat có chứa ion nhôm, viên didanosin chứa những chất đệm có ion nhôm và magiê đều làm giảm sinh khả dụng của ciprofloxacin và norfloxacin.
Các FQ có khá ít tác dụng phụ và độc tính. Tuy nhiên, do đã thấy những dị dạng sụn ở động vật non khi dùng quinolon ở liều lớn gấp nhiều lần liều dùng cho người, nên người ta khuyên không dùng thuốc cho trẻ em dưới 16 tuổi vì sợ ảnh hưởng có hại của thuốc đến sự phát triển của trẻ.
Nói chung, không nên dùng thuốc kháng sinh nhóm quinolon cho trẻ em nếu không thật sự cần thiết. Chỉ sử dụng kháng sinh này cho trẻ nếu không còn sự lựa chọn nào khác để thay thế.
Người ta cũng chú ý tới tình trạng đứt gân có liên quan tới những liệu trình FQ ngắn ngày. Bệnh nhân dùng quinolon nên tránh tập nặng trong khi điều trị và một vài tuần sau khi ngừng thuốc để phòng tránh tác dụng có hại này./.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh