✴️ Các đột biến kháng thuốc của virus viêm gan B (HBV)

1. Các đột biến kháng thuốc của HBV

Hiện nay, có khoảng trên 2 tỷ người trên thế giới bị nhiễm virus viêm gan B (HBV), trong đó có 350 triệu người mang virus viêm gan B mạn tính. Nhiễm HBV có thể dẫn đến các bệnh viêm gan hoại tử cấp hoặc mạn tính, xơ gan và đặc biệt là ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), khiến cho khoảng 0,5 - 1,2 triệu bệnh nhân tử vong mỗi năm.

Virus viêm gan B thuộc nhóm hepadnavirus, chứa một bộ gen ADN vòng, xoắn kép một phần, có khối lượng phân tử 3,2 kb, gồm có 4 gene đó là: C, P, S và X.

Hiện nay, chúng ta đang có ba nhóm thuốc kháng virus HBV dạng uống đang được sử dụng phổ biến để điều trị viêm gan virus B mạn đó là:

  • Nhóm L-Nucleoside gồm có: Lamivudine (LMV), Emtricitabine (FTC), Telbivudine (LdT) và Clevudine (L-FMAU).
  • Nhóm Acyclic Phosphonate gồm có: Adefovir dipivoxil (ADV) và Tenofovir (ADV).
  • Nhóm vòng Cyclopantane/Pentene gồm có: Entecavir (ETV), Abacavir/ Cabovir (ABC).

Các loại thuốc này có tác dụng ức chế enzyme reverse polymerase-enzyme là chất xúc tác cho sự sao chép ngược từ mARN thành ADN của virus HBV. Vì vậy chúng làm giảm sự nhân lên của virus HBV, từ đó giảm tỷ lệ biến chứng xơ gan, ung thư biểu mô tế bào gan và nguy cơ tử vong của bệnh nhân.

Tuy nhiên, việc điều trị bằng các loại thuốc này trong một thời gian dài có thể làm xuất hiện các đột biến kháng thuốc trên gen P của virus HBV, làm mất tác dụng của thuốc, dẫn đến việc điều trị thất bại và làm bệnh viêm gan tiếp tục tiến triển.

Cho đến nay, có nhiều loại đột biến kháng thuốc của HBV đã được các nhà khoa học phát hiện và tất cả các đột biến này đều nằm trên vùng sao chép ngược của gene P. Gene P được chia thành 7 vùng (domains), được ký hiệu theo thứ tự từ A đến G.

Các đột biến kháng thuốc cơ bản nằm trên gen P của virus HBV, dẫn đến sự thay đổi các bộ ba mã hóa, nghĩa là làm thay đổi các acid amin trong chuỗi polypeptide của enzyme reverse polymerase (rt). Sự thay đổi các acid amin trong các đột biến kháng thuốc thường gặp gồm có:

  • Đột biến rtL80I/V trên vùng A.
  • Đột biến rtI169T, rtV173L, rtL180M, rtA181T/V/S, rtT184A/S/G/C trên vùng B.
  • Đột biến rtA194T, rtS202C /G/I , rtM204V/I trên vùng C.
  • Đột biến rtN236T trên vùng D.
  • Đột biến rtM250V trên vùng E.

Các thay đổi acid amin này có thể xảy ra một cách riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau, tạo nên mức độ kháng thuốc khác nhau của các chủng HBV kháng thuốc này.

Các đột biến kháng thuốc của HBV trong quá trình điều trị bằng một thuốc duy nhất là:

  • Các đột biến kháng thuốc Lamivudine gồm gồm có: Đột biến rtL180M + rtM204V/I/S, rtM204I, rt80VI + rtM204I, rtV173L + rtL180M + rtM204V, rtI169T + rtV173L + rtL180M + rtM204V/, rtA181T, rtT184S + rtL180M + rtM204V hoặc rtQ215S + rtL180M + rtM204V.
  • Các đột biến kháng thuốc Adefovir gồm có: Đột biến rtN236T, rtA181V/T, rtV84M/ rtS85A/ rtL80V/I hoặc đột biến rtV214A/ rtQ215S.
  • Các đột biến kháng thuốc Entercavir gồm có: rtI169T + ntV173L + rtL180M + rtT184G + rtM204V, rtI169T + ntV173L + rtL180M + rtM204V + rtM250V hoặc có sự kết hợp các đột biến xuất hiện ở các codon 184, 202 và 250.
  • Các đột biến kháng thuốc Telbivudine gồm có: Đột biến rtM204I hoặc có các đột biến liên quan đến kháng Lamivudine.
  • Các đột biến kháng thuốc Tenofovir gồm có: Đột biến rtL180M + rtA194T + rtM204V, rtV204A, rtQ215S hoặc đột biến rtA181V + rtM204I.

Các đột biến kháng đa thuốc của HBV khi điều trị phối hợp từ hai thuốc trở lên gồm các nhóm:

  • Các đột biến kháng thuốc Lamivudine và Adefovir gồm có:
    • rtM204I + rtL180M
    • rtM204V + rtL180M
    • rtM204I + rtM204V + rtL180M
  • Các đột biến kháng thuốc Lamivudine và Entecavir gồm có:
    • rtM204V + rtL189M + rtT184L
    • rtM204V + rtL189M + rtS202G
    • rtM204V + rtS202G.
  • Các đột biến kháng thuốc Lamivudine, thuốc Adefovir và Entecavir gồm có:
    • rtA181T + rtM204V + rtS202G
    • rtA181T + rtM204V + rtL180M + rtT184L.
    • Các đột biến kháng thuốc Lamivudine và thuốc Tenofovir gồm có:
    • rtV214A, rtQ215S, ±rtL180M + rtM204V
    • rtL180M + rtA194T + rtM204V
  • Các đột biến kháng thuốc Lamivudine, thuốc Adefovir và thuốc Tenofovir gồm có: Đột biến rtA181V + rtM204I.

 

2. Cách xác định các đột biến kháng thuốc của HBV

Cách để có thể xác định đột biến kháng thuốc của virus viêm gan B (HBV): Các đột biến nằm ở một số vị trí nhất đinh tại vùng domain reverse transcriptase (vùng rt) của gen HBV polymerase đã được chứng minh là có vai trò gây ra tính kháng thuốc của virus HBV.

Để xác định đột biến kháng thuốc của HBV, các bác sĩ sẽ sử dụng kỹ thuật PCR lồng (nested PCR) để nhân vùng rt với các cặp mồi như sau:

Cặp mồi vòng ngoài (outer PCR) gồm có HBV-69 và HBV-70.

Cặp mồi vòng trong (inner PCR) gồm có HBV-61 và HBV-17. Sau đó sản phẩm PCR vòng trong sẽ được làm tinh sạch để giải trình tự. Trình tự đoạn gen đích sau khi giải trình sẽ được đem so sánh với các trình tự tham chiếu của các chủng hoang dại và các trình tự tham chiếu có kiểu gen khác nhau để so sánh và tìm kiếm các đột biến kháng thuốc dựa vào phần mềm có tên là Bioedit.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top