Điều trị nội khoa bằng các thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (ATD) hiện là phương pháp chính điều trị BN Basedow. Tuy nhiên tỷ lệ tái phát sau ngừng thuốc là khá cao, dao động từ 20 – 70% trong các nghiên cứu. Vì vậy việc tối ưu hóa chiến lược điều trị nhằm giảm nguy cơ tái phát ở BN Basedow là hết sức quan trọng, đặc biệt là xác định phác đồ liều hiệu quả nhất trước khi ngừng thuốc. Một số yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ tái phát đã được xác định, bao gồm sự chuyển đổi âm tính của kháng thể TRAb, tổng thời gian điều trị bằng ATD, và thời gian BN duy trì ở liều tối thiểu. Các nghiên cứu gần đây gợi ý rằng điều trị kéo dài (có thể đến 5 năm) với ATD liều thấp làm tăng tỷ lệ lui bệnh.
Một nghiên cứu tại Nhật Bản sử dụng dữ liệu từ bệnh án điện tử của 4352 BN được chẩn đoán Basedow trong thời gian từ 2008–2024 và đã ngừng methimazole (MMI) sau khi dùng liều duy trì tối thiểu (≤2,5 mg/ngày). Các BN được chia thành 4 nhóm dựa theo liều duy trì cuối cùng trước khi ngừng thuốc: 2,5 mg/ngày; >1,25 đến ≤2,5 mg/ngày; 1,25 mg/ngày; và <1,25 mg/ngày. Phân tích mối liên quan giữa liều MMI tối thiểu trước khi ngừng thuốc và nguy cơ tái phát trong vòng 1 năm cho thấy so với nhóm 2,5 mg/ngày, nhóm 1,25 mg/ngày có nguy cơ tái phát thấp hơn đáng kể [RR = 0,46; 95% CI: 0,28–0,75], và nhóm <1,25 mg/ngày có nguy cơ tái phát thấp nhất (RR = 0,18; 95% CI: 0,05–0,73). Phân tích sâu hơn bằng phương pháp ghép cặp ở 172 cặp BN, phù hợp với hồi quy đa biến, cũng cho thấy nhóm 1,25 mg/ngày có nguy cơ tái phát thấp hơn so với nhóm 2,5 mg/ngày (RR: 0,44; 95% CI: 0,23–0,85).
Dựa trên kết quả này, các tác giả kết luận: Liều duy trì tối thiểu của MMI thấp hơn trước khi ngừng thuốc, đặc biệt là <2,5 mg/ngày, có liên quan với giảm nguy cơ tái phát bệnh Basedow. Các bác sĩ lâm sàng nên cân nhắc duy trì thuốc kháng giáp trạng tổng hợp liều thấp trong điều trị bệnh Basedow.
Nguồn: The Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism số ngày 1/ 8/ 2025