Sàng lọc ung thư phổi bằng chụp CT liều thấp

Ung thư phổi đang là vấn đề sức khỏe được các cơ quan y tế trên toàn cầu hết sức quan tâm do số lượng ca mắc mới và tử vong mỗi năm đều nằm trong tốp đầu các bệnh lí ung thư. Các yếu tố làm gia tăng ung thư phổi phải kể đến là: hút thuốc lá, tuổi đời cao, phơi nhiễm nghề nghiệp, tiếp xúc amiang, xơ phổi vô căn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, di truyền… Kết quả điều trị ung thư phổi phụ thuộc nhiều vào giai đoạn phát hiện bệnh. Người mắc ung thư phổi được phát hiện và điều trị càng sớm thì kết quả càng khả quan. Sàng lọc ung thư phổi bằng chụp cắt lớp vi tính liều thấp (Low Dose Computed Tomography – LDCT) đã trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và giúp phát hiện được nhiều ca bệnh ung thư phổi giai đoạn sớm, góp phần giảm tỉ lệ tử vong do ung thư phổi. Báo cáo tổng quan sẽ đề cập đến tình hình ung thư phổi, vấn đề sàng lọc ung thư phổi bằng chụp cắt lớp vi tính liều thấp và một số khuyến cáo của thế giới nên áp dụng khi tiến hành chương trình sàng lọc ung thư phổi tại Việt Nam.
 

Sàng lọc ung thư phổi bằng LDCT đã đượcchứng minh có tác dụng giảm tỉ lệ tử vong do ung thư phổi trong cộng đồng. Hiện nay, trên thế giới, đã và đang có rất nhiều nghiên cứu về những phương cách có thể chẩn đoán được ung thư phổi giai đoạn sớm, song sử dụng LDCT vẫn là phương pháp chủ đạo đang được sử dụng. Các quốc gia, các vùng địa lí cần xây dựng cho mình một chương trình sàng lọc ung thư phổi dựa trên các điều kiện hiện có. Đẩy mạnh truyền thông về các chương trình sàng lọc ung thư phổi bằng LDCT lồng ghép với tuyên truyền về tác hại của thuốc lá; tăng cường đầu tư phương tiện, nhân lực, nguồn lực cũng như ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng trí tuệ nhân tạo trong chương trình sàng lọc đã được các nước phát triển thực hiện, bước đầu cho thấy hiệu quả rõ rệt. Với những tiếp cận và triển khai, ứng dụng mới, kì vọng trong tương lai không xa, Việt Nam cũng sẽ có những thành công nhất định trong việc triển khai sàng lọc ung thư phổi bằng LDCT.



Tiêu chuẩn lựa chọn sàng lọc

Theo NCCN (2021), những đối tượng sau đây nên được ưu tiên sàng lọc: hút thuốc lá, phơi nhiễm bức xạ tự nhiên cao, phơi nhiễm nghề nghiệp, tiền sử đã mắc ung thư, thế hệ trước trong gia đình có mắc ung thư, có bệnh phổi nền mạn tính (COPD, xơ phổi), hút thuốc bị động. Những đối tượng này được chia thành các nhóm: Nhóm nguy cơ cao: tuổi ≥ 50 và hút thuốc lá ≥ 20 bao/năm. Nhóm nguy cơ thấp: tuổi ≤ 50 và hút thuốc lá ≤ 20 bao/năm. Nhóm nguy cơ cao là ứng cử viên cho khám sàng lọc ung thư phổi, bác sĩ cần tư vấn cho người bệnh để cùng người bệnh quyết định về kế hoạch khám sàng lọc, trong đó, lưu ý giải thích rõ cho người bệnh về lợi ích cũng như các vấn đề bất lợi của khám sàng lọc. Nhóm nguy cơ thấp không khuyến cáo khám sàng lọc ung thư phổi. Những đối tượng sau không nên khám sàng lọc: có triệu chứng của bệnh ung thư, đang mắc bệnh ung thư bất kì, đang mắc bệnh khác mà việc khám sàng lọc bị chống chỉ định trong phác đồ điều trị. Thời gian gần đây, một số quốc gia (Hoa Kỳ, Hàn Quốc…) đã tiến hành khám sàng lọc ung thư phổi bằng LDCT ở nhóm đối tượng chưa từng hút thuốc lá, đã phát hiện được số lượng lớn đối tượng mắc ung thư phổi và đều ở giai đoạn rất sớm. Tỉ lệ phát hiện ung thư phổi ở những người không bao giờ hút thuốc thấp hơn ở những người đã từng hút thuốc. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ dương tính giả và âm tính giữa hai nhóm. Do đó, cần có một chiến lược khám sàng lọc và quản lí cụ thể hơn đối với nhóm đối tượng này.

 

Về quy định “liều thấp” trong sàng lọc

Hướng dẫn của Mạng lưới ung thư quốc gia Hoa Kỳ (2021) về sàng lọc ung thư phổi bằng LDCT: Theo hướng dẫn của Mạng lưới ung thư quốc gia Hoa Kỳ (NCCN), quy định “liều thấp” sẽ căn cứ vào chỉ số BMI (với BMI ≤ 30, liều thấp ≤ 3 mSv; với BMI > 30, liều thấp ≤ 5 mSv). Các chỉ số này sẽ được điều chỉnh bởi kVp và mAs của máy cắt lớp vi tính khi chụp. Tuy nhiên, đại đa số các quốc gia đồng thuận việc giảm liều theo nguyên tắc “giảm được càng nhiều càng tốt, song cần bảo đảm hình ảnh được bác sĩ chẩn đoán hình ảnh chấp nhận (đọc được)”. Việc giảm và quy định liều còn phụ thuộc vào nhân chủng học mỗi quốc gia và thế hệ máy chụp. Các quốc gia châu Á đang đồng thuận ở mức < 1,4 mSv

 

return to top