Trong quá trình mang thai bình thuờng, cơ thể người phụ nữ có sự thay đổi hormone nên có tăng cả thể tích huyết tuơng (do giữ nước và muối) và tăng thể tích tế bào máu (do tăng số lượng hồng cầu máu). Sự tăng không tương xứng giữa hai yếu tố này trong máu gây ra tình trạng thiếu máu sinh lý ở phụ nữ mang thai. Vì thế nhịp tim của người mẹ tăng lên trong suốt 40 tuần mang thai, thêm vào là do tăng trương lực giao cảm và sự tăng sản sinh nhiệt bình thường. Kéo theo thể tích nhát bóp của tim tiếp tục tăng đến tam cá nguyệt thứ ba, khi đó sự hồi lưu máu ở tĩnh mạch chủ có thể bị chèn ép bởi tử cung có thai. Cung lượng tim của người mẹ tăng 30 – 50% trong thai kỳ bình thường.
Khi mang thai, thành mạch máu bị yếu đi do ảnh hưởng cùa estrogen và prostaglandin. Khi bánh nhau phát triển, nó làm kháng lực tuần hoàn thấp. Chính các yếu tố này và thêm vào đó sự tăng sản sinh nhiệt làm giảm kháng lực mạch máu hệ thống. Đó là sự thay đổi bình thường trong thai kỳ.
Huyết áp thấp và nhịp tim tăng. Mỏm tim sẽ bị đẩy ra bên khi tử cung lớn. Tiếng tim T3 thường gặp vì có sự tăng nhanh đổ đầy thất trái vào đầu thì tâm trương. Tiếng T4 thì hiếm gặp và có thể phản ánh tăng huyết áp tiềm tàng. Âm thổi sinh lý ở van động mạch phổi thường gặp do thể tích nhát bóp qua van động mạch phổi tăng. Âm thổi tâm thu có cường độ 1/6-2/6 có thể giải thích bởi các thay đổi sinh lý. Tiếng thổi ở vú và tiếng tĩnh mạch (venous hum) thường là các âm thổi nông, liên tục và biến mất khi đè mạnh phần màng của ống nghe. Nếu âm thổi này không biến mất, cần nghĩ đến có còn ống động mạch hoặc dò mạch vành vào buồng tim.
Với mỗi cơn co thắt của tử cung (cơn gò), có từ 300 đến 500ml máu từ tử cung đổ vào hệ tuần hoàn người mẹ. Sanh qua ngả âm đạo thì cung lượng tim giảm ít hơn so với sanh mổ, do đó sanh qua ngả âm đạo được khuyến cáo nhiều nhất cho các sản phụ có bệnh tim mạch. Sanh hút được thực hiện để rút ngắn giai đoạn II của chuyển dạ ở những sản phụ có thể không đủ sức rặn. Sau khi sanh, thể tích nội mạch tăng do tĩnh mạch chủ không còn bị chèn ép và nhịp tim chậm lại. Huyết áp, cung lượng tim, nhịp tim trở về bình thường sau 5-6 tuần khi sự thay đổi hormon trở về tình trạng trước mang thai.
Phòng ngừa viêm nội tâm mạc nhiễm trùng có thể thực hiện ở các sản phụ sanh bằng đường âm đạo mà có viêm nội tâm mạc nhiễm trùng trước đó, có van tim nhân tạo, có bệnh tim bẩm sinh đã được phẫu thuật trong vòng 6 tháng hay sau 6 tháng nhưng còn luồng thông tồn lưu, phẫu thuật tạo luồng thông hoặc dụng cụ nối giữa tuần hoàn chủ-phổi, sau ghép van tim. Theo hướng dẫn năm 2007 của tổ chức tim mạch học Hoa Kỳ, trong sanh mổ, không có chỉ định phòng ngừa viêm nội tâm mạc nhiễm trùng mặc dù trên thực tế vẫn thường xuyên thực hiện.
Hẹp van hai lá, hẹp van động mạch chủ, hẹp van động mạch phổi mức độ trung bình đến nặng dung nạp kém trong thai kỳ. Bệnh nhân nên được thảo luận về vấn đề xem xét nong van hay thay van tim trước khi có thai. Nếu bệnh nhân trở nặng, các quá trình này có thể thực hiện trong thai kỳ với nguy cơ cao hơn. Tăng áp phổi cũng là một nguy cơ cao đối với thai kỳ.
Cả hở van hai lá và hở van động mạch chủ mức độ nhẹ đến trung bình đều dung nạp tốt trong thai kỳ. Sự giảm kháng lực mạch máu hệ thống có thể làm giảm bớt mức độ hở van. Chỉ có bệnh nhân hở van tim có triệu chứng nặng ( suy tim NYHA III-IV hoặc hơn) nên được thay van tim trước khi có thai, và chỉ có một chỉ định thay van tim trong thai kỳ là thai phụ bị viêm nội tâm mạc nhiễm trùng.
Phù phổi cấp, đột quỵ, tử vong do bệnh tim ở mẹ là các biến chứng ghi nhận trong một nghiên cứu gồm 599 thai phụ. Biến chứng ở thai nhi gặp ở thai phụ có triệu chứng nặng hơn NYHA II hoặc có tím, tắc nghẽn buồng tim trái, dùng kháng đông, hút thuốc lá và đa sản.
Bởi vì warfarin là chống chỉ định trong tam cá nguyệt đầu và cuối thai kỳ, theo hướng dẫn năm 2004 của Hiệp hội các bác sĩ lồng ngực Mỹ (ACCP), phác đồ dùng thuốc kháng đông được khuyến cáo như sau (mức độ chứng cứ IC):
Các bệnh tim bẩm sinh đã thay thế các bệnh van tim hậu thấp trở thành bệnh tim có sẵn nhiều nhất trong thai kỳ. Thông liên nhĩ và thông liên thất đã được đóng không còn là yếu tố nguy cơ cần bàn đến. Một luồng thông từ trái sang phải trong tim thường được dung nạp tốt trong thai kỳ vì có sự giảm kháng lực mạch máu hệ thống nên giảm luồng thông trái – phải. Thai phụ tăng nguy cơ bị thuyên tắc mạch máu ngược dòng nếu có huyết khối tĩnh mạch sâu tiến triển.
Luồng thông phải – trái (bệnh tim bẩm sinh tím) thường dung nạp kém trong thai kỳ. Phụ nữ bị tứ chứng Fallot nên được sửa chữa trước khi dự tính có thai. Vì có sự giảm kháng lực mạch máu hệ thống nên luồng thông phải – trái trở nên xấu hơn trong thai kỳ. Những phụ nữ bị hội chứng Eisenmenger có nguy cơ tử vong mẹ từ 30% đến 50% trong thai kỳ. Vì vậy những phụ nữ có nguy cơ cao này cần được thảo luận các biện pháp tránh thai hoặc chấm dứt thai kỳ. Có nhiều dữ liệu về các phụ nữ bị bệnh tim bẩm sinh đã sửa chữa hoàn toàn có thể sống đến tuổi trưởng thành và sanh đẻ được, họ được khuyến cáo siêu âm tim thai. Siêu âm tim thai có khả năng xác định các bất thường của tim thai nhi trước sanh, dẫn đến chấm dứt thai kỳ chọn lọc , do đó tỉ lệ bệnh tim bẩm sinh giảm.
Thai phụ có thể có ngoại tâm thu nhĩ và ngoại tâm thu thất bởi vì có sự căng cơ tim. Loạn nhịp do đường vào lại có thể xuất hiện và được điều trị cắt cơn với nghiệm pháp xoa xoang cảnh hay sử dụng adenosine nếu thai phụ có huyết động không ổn định. Rối loạn nhịp trên thất tái phát có thể dự phòng bằng digitalis hoặc ức chế beta. Rối loạn nhịp thất có triệu chứng được điều trị bằng nội khoa hay máy khử rung cấy được. Nếu một thai phụ bị ngưng tim, thai nhi có khả năng sống nếu được lấy ra trong vòng 15 phút, khi tuần hoàn của người mẹ không hồi phục được.
Thai phụ bị nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên nên được chuyển đến phòng thông tim để thực hiện nong mạch vành tiên phát. Heparin có thể sử dụng an toàn, tuy nhiên có ít dữ liệu về sử dụng stent vì clopidogrel không được nghiên cứu trên phụ nữ có thai. Thuốc ức chế beta và aspirin có thể sử dụng cho phụ nữ có thai, nhưng thuốc ức chế men chuyển, ức chế thụ thể và statin nên tránh sử dụng. Cần điều trị các yếu tố nguy cơ kèm theo.
Phụ nữ có bệnh cơ tim phì đại sự có sự tăng thêm áp lực cuối tâm trương thất trái sẵn có vì tăng thể tích tuần hoàn khi mang thai. Sự tắc nghẽn buồng tống có thể cải thiện nếu thất trái dãn được. Điều trị cũng tương tự khi không mang thai. Khi sanh, vấn đề vô cảm là then chốt để giảm kích thích giao cảm do đau, hầu hết các thuốc tê, thuốc mê đều làm giảm co bóp cơ tim. Sự thay đổi tiền tải và hậu tải cần giảm đến mức tối đa trong khi sanh để tránh sự tăng tắc nghẽn buồng tống. Thuốc co mạch tác dụng ngắn, lợi tiểu và điều chỉnh dịch có thể cần thiết.
Phụ nữ có hội chứng Marfan có nguy cơ bóc tách động mạch chủ (ĐMC) vì có sự thay đổi của mạch máu trong thai kỳ. Tư vấn di truyền nên thực hiện trước khi có thai bởi vì sự di truyền qua gen trội trên nhiễm sắc thể thuờng. Những bệnh nhân có gốc ĐMC lớn hơn 40mm có nguy cơ bóc tách cao nhất và nên tránh có thai. Điều trị bao gồm dùng ức chế beta, siêu âm kiểm tra định kỳ và nằm nghỉ tại giường để tránh dãn thêm gốc ĐMC. Khi nghi ngờ có bóc tách, nên chẩn đoán bằng siêu âm tim qua thực quản hơn là cộng hưởng từ. Bóc tách type A (bao gồm ĐMC lên) nên đuợc phẫu thuật và cho sanh khi thai nhi có thể sống được trước khi phẫu thuật. Đối với bóc tách ĐMC type B ( bao gồm ĐMC xuống) có thể điều trị nội khoa với labetalol và nitroprusside.
Đó là hội chứng suy tim sung huyết được chẩn đoán trong giai đoạn từ tháng cuối cùng của thai kỳ đến tháng thứ 5 sau sinh với bằng chứng giảm chức năng tâm thu trên siêu âm tim, không có nguyên nhân rõ ràng hay hồi phục được. Các bệnh tim tồn tại trước đó thường biểu hiện trước tháng thứ chín do sự thay đổi sinh lý của thai kỳ. Những phụ nữ này được điều trị suy tim tích cực ( hydralazine/nitrates trong thai kỳ, ức chế men chuyển dùng an toàn sau khi sanh cả với phụ nữ cho con bú). Tiên lượng phụ thuộc vào mức độ hồi phục chức năng tâm thu của tim. Nguy cơ cho mẹ sẽ xấu hơn sau sanh nếu phân suất tống máu của thất trái vẫn giữ mức thấp hơn 40%. Nồng độ BNP không tăng trong thai kỳ bình thuờng, nhưng tăng cao ở những thai phụ có bệnh cơ, tiền sản giật, sản giật và đái tháo đường.
Tài liệu tham khảo, tài liệu nên đọc và websites