Có ba nhóm khác nhau:
Độ khả dụng sinh học của digoxin uống là 60%, và thời gian bán hủy từ 32 – 48 giờ. Sự gắn kết với protein của digoxin là 25%, của digitoxin là 93%. Thời gian bắt đầu tác dụng của digoxin khi uống là từ 0.5 – 2 giờ, khi tiêm tĩnh mạch là 5-30 phút; đỉnh tác dụng của digoxin là từ 6 -8 giờ (uống ) và 1 – 4 giờ (tiêm tĩnh mạch). Digoxin được đào thải chủ yếu qua thận (50% -70%), trong khi đó digotoxin được lọc 70% qua gan.
Các glycoside tim ức chế bơm Na+- K+ ATPase ở màng tế bào cơ tim và các tế bào khác. Sự ức chế này gây ra sự tích tụ Na+ trong tế bào, do đó bơm Na+-Ca++ sẽ giảm thải trừ Ca++ gây ứ đọng Ca++ trong tế bào . Kết quả là làm tăng co sợi cơ tim. Các glycoside tim cũng có tác dụng trên hệ thần kinh trung ương như kích thích phó giao cảm, giảm tác dụng giao cảm trên tim thông qua việc làm tăng sự nhạy cảm của các cảm thụ quan ở xoang cảnh. Đây là cơ chế làm giảm hoạt động nút xoang và làm chậm dẫn truyền nhĩ thất, chính điều này khiến cho digoxin là thuốc duy nhất có tác dụng tăng co bóp cơ tim đồng thời làm chậm nhịp tim và là cơ sở trong việc sử dụng thuốc để kiểm soát một số loại nhịp nhanh trên thất.
Thử nghiệm Digitalis Investigation Group (DIG) là một nghiên cứu đa trung tâm có phân nhóm ngẫu nhiên, mù đôi có kiểm chứng với giả dược, được thực hiện trên 6801 bệnh nhân có triệu chứng suy tim với EF < 45%, và có nhịp xoang. Thời gian theo dõi trung bình là 37 tháng. Những bệnh nhân đang dùng digoxin cũng được đưa vào nghiên cứu và được phân nhóm ngẫu nhiên dùng digoxin hay giả dược mà không có giai đoạn lọc bệnh (washout period). Khoảng 95% bệnh nhân trong cả hai nhóm được dùng thuốc ức chế men chuyển; thuốc ức chế beta không được sử dụng cho những bệnh nhân có suy tim trong thời gian này. Tiêu chí chính là tử vong toàn bộ. Digoxin không cải thiện tổng số tử vong ( 34.8% so với 35.1% trong nhóm giả dược, p = 0.80) hay tử vong do nguyên nhân tim mạch ( 29.9% so với 29.5%, p = 0.78). Số nhập viện do suy tim nặng hơn (tiêu chí thứ 2 )giảm rõ rệt trong nhóm digoxin ( 26.8% so với 34.7% nhóm giả dược, RR 0.72, p < 0.001). Số nhập viện do nghi ngờ ngộ độc digoxin cao hơn trong nhóm digoxin (2% so với 0.9% , p< 0.001).Trong một nghiên cứu phụ được thực hiện đồng thời, trên những bệnh nhân EF > 45%, có nhịp xoang, các kết quả thu được cũng tương tự như trong thử nghiệm chính. Không rõ liệu những kết quả này có đúng với điều trị suy tim hiện nay bao gồm ức chế beta, chẹn thụ thể aldosterone và điều trị bằng tái đồng bộ hay không.
Một phân tích sau thử nghiệm DIG cho thấy trên bệnh nhân nam có triệu chứng suy tim, nhịp xoang và EF < 45%, nồng độ digoxin trong máu cao hơn đi kèm tử vong do mọi nguyên nhân nhiều hơn, như sau đây: 0.5 – 0.8 ng/ml, 29.9%; 0.9 – 1.1 ng/ml, 38.8%; và 1.2 ng/ml hay hơn, 48.0%; p = 0.006. Những bệnh nhân có nồng độ digoxin huyết thanh 0.5 – 0.8 ng/ml có tỉ lệ tử vong thấp hơn 6.3% ( khoảng tin cậy [CI ] 95%, 2.1% – 10.5%) so với bệnh nhân trong nhóm dùng giả dược.
Digoxin có khoảng an toàn hẹp (sự khác nhau của nồng độ thuốc trong huyết tương giữa điều trị và ngộ độc rất nhỏ). Những bệnh nhân ngộ độc digoxin có biểu hiện nhiều nhất là buồn nôn, chán ăn, tiêu chảy, mệt, tình trạng khó chịu toàn thân, rối loạn thị giác (thấy quầng màu xanh hay vàng xung quanh những vật sáng) và loạn nhịp. Khi bệnh nhân ở tình trạng hạ kali máu, ngộ độc digoxin có thể xảy ra ở nồng độ điều trị. Liều digoxin nên giảm ở bệnh nhân già, bệnh nhân có giảm chức năng thận ( độ lọc cầu thận < 60 ml/ph), và khi kết hợp với một số thuốc kể trên. Trong điều trị suy tim mạn, chúng ta nên đo nồng độ digoxin 6 – 8 giờ sau khi uống.
Ngộ độc digoxin có thể dẫn đến nhiều loại loạn nhịp thất hay trên thất và rối loạn dẫn truyền nhĩ thất:
Những loại loạn nhịp là do tác động điện sinh lý của digoxin: Tăng nồng độ Ca++ nội bào tạo điều kiện cho hiện tượng hậu khử cực muộn do Ca++ gây ra và do đó làm tăng tự động tính (đặc biệt ở bộ nối, hệ thống Purkinje và thất); tác động lên thần kinh phế vị quá mức sẽ gây ra nhịp chậm xoang, ngưng xoang hay bloc nhĩ thất. Loạn nhịp chậm và bloc thường xảy ra thường hơn khi bệnh nhân đang dùng amiodarone.
Hình 25 -1: Cách đơn giản để chẩn đoán nhịp nhanh phức bộ hẹp. Bước 1 là xác định nhịp đều hay không đều. (Khoảng cách các phức bộ QRS đều hay không đều?). Bước 2 là tìm sự hiện diện của sóng P hay hoạt động nhĩ đều đặn.
Hình 25 -2. Nhịp nhanh thất hai chiều ở một bệnh nhân ngộ độc digitalis (Trích từ Marriott HJL, Conover MB: Advanced concepts in arrhythmias, ed,.St. Louis, 1989, Mosby.)
Tùy vào mức độ nặng trên lâm sàng. Nếu chỉ có triệu chứng gợi ý ngộ độc thì ngưng digoxin là đủ. Dùng than hoạt có thể đẩy nhanh quá trình loại bỏ digoxin ra khỏi đường tiêu hóa nếu thuốc được uống trong vòng 6 giờ. Những thuốc làm tăng nồng độ digoxin trong huyết tương (xem câu hỏi 6) nên được ngưng (trừ amiodarone do thời gian bán hủy kéo dài). Điều chỉnh hạ kali máu là vấn đề sống còn (ưu tiên bù kali qua đường truyền tĩnh mạch lớn trong trường hợp loạn nhịp đe dọa sinh mạng), nhưng cần phải cân nhắc nếu bệnh nhân có bloc nhĩ thất cao độ. Bloc nhĩ thất có triệu chứng có thể đáp ứng với atropine hay phenytoin (100mg tĩnh mạch mỗi 5 phút tăng đến1000 mg cho đến khi có đáp ứng hay xuất hiện tác dụng phụ); nếu không đáp ứng sẽ dùng Digibind. Nên tránh sử dụng tạo nhịp tạm thời qua đường tĩnh mạch. Những bệnh nhân có loạn nhịp chậm nặng nên được dùng Digibind, ngay cả khi có đáp ứng với atropine. Lidocaine và phenytoin có thể được dùng để điều trị loạn nhịp thất, nhưng đối với những bệnh nhân có loạn nhịp nhanh hay chậm đe dọa tính mạng nên dùng Digibind. Lọc máu không có hiệu quả vì digoxin gắn chặt vào mô.
Chỉ định dùng Digibind bao gồm loạn nhịp nhanh và chậm đe dọa sinh mạng; tình trạng huyết động không ổn định do digoxin gây ra, nồng độ kali máu > 5mEq/L khi uống lượng lớn digoxin, bất kể triệu chứng hay dấu hiệu điện tâm đồ; nồng độ digoxin > 10 ng/ml hay uống > 10mg digoxin, bất kể triệu chứng hay dấu hiệu điện tâm đồ. Digibind là một kháng thể gắn với digoxin trong huyết tương và trong khoảng gian bào, tạo ra sự chênh lệnh nồng độ để giúp thoát digoxin nội bào. Khi tình trạng nhiễm độc của kênh Na+ – K+ ATPase giảm, K+ sẽ được bơm vào trong tế bào nên có nguy cơ hạ kali máu; nên theo dõi nồng độ kali máu khi dùng Digibind. Thời gian bán hủy của phức hợp digibind – digoxin là từ 15 đến 20 giờ nếu chức năng thận bình thường. Nồng độ digoxin trong huyết thanh tăng một cách đáng kể sau dùng Digibind (bởi vì digoxin ở mô được phóng thích vào máu và gắn vào kháng thể) và do đó không cần đo.
Cần tuân thủ những bước sau khi dùng Digibind:
–
* Độ khả dụng sinh học của digoxin qua đường uống
†Thể tích phân phối của digoxin trong cơ thể (L/kg)
‡ Khả năng gắn kết của Digibind (0.6mg digoxin cho 1 ống )
Để điều trị tăng co bóp cơ tim cấp, những thuốc tăng co cơ và dãn mạch (inodilator) như milrinone, amrinone là những thuốc được chọn lựa khi cần tăng co bóp cơ tim cho những bệnh nhân đang dùng chẹn beta kéo dài. Trong điều trị lâu dài có thể dùng hết hợp digoxin với chẹn beta, mặc dù hiệu quả của sự kết hợp này chưa được nghiên cứu.
KHUNG 25 – 1. ACC/AHA HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DIGOXIN VÀ NHỮNG THUỐC TĂNG CO BÓP CƠ TIM KHÁC TRONG ĐIỀU TRỊ SUY TIM |
Loại I (Được chỉ định)
Loại II (Chứng cớ ủng hộ mạnh)
Loại IIb (Chứng cớ ủng hộ yếu; Việc sử dụng kém tính thuyết phục hay còn tranh cãi)
Loại III ( Không được chỉ định )
|
MĐCC: Mức độ chứng cứ
Trích dẫn từ ACC/AHA 2005 Hướng dẫn cập nhật chẩn đoán và điều trị suy tim mạn tính ở người lớn: http://content.onlinejacc.org/cgi/reprint/46/6/1116; và ACC/AHA 2006 Hướng dẫn điều trị bệnh nhân rung nhĩ: http:// content. Onlinejacc.org /cgi/content /full/48/4/e149. |
Tài liệu tham khảo, tài liệu nên đọc và websites