Chấn thương sọ não là một chấn thương mà năng lượng chấn thương truyền tới sọ não vượt quá hạn chịu đựng (bù đắp) của sọ não và cơ thể gây nên rối loạn chức năng sọ não hoặc tổn thương cụ thề ở sọ não.
Khi có một lực tác động vào đầu và gây tổn thương xương sọ và não, lực này là tác nhân cơ học “khởi động” cho các quá trình bệnh lí ở não xảy ra.
Trên cơ sở tổn thương não tiên phát xảy ra ngay sau chấn thương sẽ dẫn tới tổn thương não thứ phát là do hậu quả của rối loạn vận mạch, rối loạn thần kinh thể dịch,… dẫn tới phù não và làm cho áp lực nội sọ tăng cao.
Sự mất ý thức đột ngột xảy ngay sau khi chấn thương vào đầu (các nhà lâm sàng gọi là ức chế bảo vệ của vỏ não) và những thay đồi về trương lực cơ biểu hiện người bệnh mềm nhũn, mạch nhanh, nhịp thở tăng lên,… đó chính là rối loạn xung động thần kinh của hệ lưới – vỏ não và dưới vỏ.
Rối loạn vỏ não – thể lưới – dưới vỏ có thể chi là rối loạn chức năng (trường hợp nhẹ như chấn động não), nhưng cũng có khi là tổn thương thực thề như giập não, chảy máu trong chất não,…
Khi bị chấn thương do cơ chế tăng và giảm tốc đột ngột làm cho các mạch máu bị tổn thương.
Chấn thương sọ não là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp, chủ yếu do tai nạn giao thông (86%), tai nạn lao động (4,4%), tai nạn sinh hoạt (4,4%), các nguyên nhân khác (5,3%).
– Thời gian, hoàn cảnh, nguyên nhân, cơ chế chấn thương.
– Các yếu tố liên quan, tác nhân gây tai nạn, đầu cố định hay di động.
– Theo dõi diễn biến tri giác, phát hiện khoảng tỉnh.
– Tiền sử: dùng thuốc kháng đông, bệnh lí huyết học, nội tiết,…
Thăm khám thần kinh để phát hiện các thương tổn tiên phát và thứ phát trong hộp sọ, vì vậy cần đánh giá cả quá trình từ lúc bệnh nhân bị tai nạn tới lúc đến bệnh viện.
Tri giác: đánh giá theo thang điềm Glasgow và so sánh với tri giác trước đó (GCS = E + V + M):
– Phát hiện các dấu thần kinh khu trú: vận động, đồng tử, dây thần kinh sọ.
– Tìm các thương tích ở da đầu để xác định vị trí va đập đầu tiên (rách da, tụ máu), có dịch não tủy hoặc não ở vết thương không.
– Các dấu hiệu gián tiếp của vỡ nền sọ: chảy máu mũi, tai; tụ máu quanh mắt hoặc sau tai; chảy dịch não tủy qua mũi, tai.
– Bệnh nhân mê ngay từ đầu: các thương tổn tiên phát dập não, tổn thương trục. Nếu tri giác tiếp tục xấu đi có thể có thương tổn thứ phát kèm theo như chảy máu, phù não, thiếu máu não.
– Có khoảng tỉnh: bệnh nhân có thương tổn thứ phát phần lớn là biến chứng chảy máu. Tuy nhiên, có hai diễn biến của khoảng tỉnh:
– Không mất tri giác: trường hợp này vẫn cần theo dõi cẩn thận, nhất là ở những người bị đau đầu nhiều, có các dấu hiệu kích thích màng não: nôn, buồn nôn, cứng gáy,… có thể có những ổ dập não nhỏ, máu tụ nhỏ và diễn biến nặng hơn.
Chụp sọ thẳng, nghiêng; chụp hàm mặt; chụp cột sống cồ là bắt buộc trong tất cả các trường hợp chấn thương sọ não bệnh -nhân hôn mê.
Không bất buôc cho tất cả các trường hợp chấn thương sọ não mà chỉ nên chụp trong các chỉ định sau:
– Công thức máu, nhóm máu, đông cầm máu, điện giải,…
– Đường máu, nồng độ rượu, chất kích thích, gây nghiện.
– Chỉ định:
– Nguyên tắc điều trị chấn thương sọ não nặng:
– Chấn thương sọ não có điểm Glasgow >14
– Không có dấu hiệu bất thường trên X-quang sọ hay CT scan
– Tại nhà có người theo dõi bệnh nhân.
Khi có những dấu hiệu sau cần trở lại bệnh viện ngay: