Những khuyến cáo thông thường là:
Hình 4-1. Sơ đồ tượng trưng giải phẫu học của X quang ngực.
Aor, Động mạch chủ; IVC, tĩnh mạch chủ dưới; LAA, tiểu nhĩ trái; LPA, động mạch phổi trái; LV, thất trái; PT, thân động mạch phổi; RA, nhĩ phải; RPA: động mạch phổi phải; RV, thất phải; SVC, tĩnh mạch chủ trên; Tr: khí quản.
(Từ Inaba AS: Cardiac disorders. In Marx J, Hockberger R, Walls R: Rosen’s emergency medicine: concepts and clinical practice, ed 6, Philadelpia, 2006, Mosby)
Việc xác định bóng tim to trên phim X quang ngực có tính chủ quan, nhưng nếu kích thước tim tương đương hay lớn hơn kích thước nửa lồng ngực, thì được coi là lớn. Nên nhớ rằng phim được chụp khi thở ra, ở tư thế nằm, hay chụp tại giường sẽ làm bóng tim có vẻ to hơn.
Đối với phim X quang chụp tại khoa săn sóc đặc biệt (ICU) hay khoa săn sóc đặc biệt tim mạch (CCU), cần đặc biệt chú ý những điểm sau:
Cần quan sát cẩn thận để tìm tràn khí màng phổi (Hình 3-4), tràn khí dưới da, và những yếu tố khác có thể liên quan đến dụng cụ và thông khí cơ học.
Có nhiều nguyên nhân có thể làm dãn rộng trung thất (Hình 4-4). Một số nguyên nhân gây dãn rộng trung thất đáng chú ý nhất bao gồm bóc tách/vỡ động mạch chủ và chảy máu trung thất do chấn thương ngực hay đặt catheter tĩnh mạch trung tâm lạc chỗ. Một trong những nguyên nhân thường gặp nhất gây dãn rộng trung thất là khối mỡ lồng ngực ở người béo phì. Các khối u cũng có thể gây dãn rộng trung thất – đặc biệt là u tế bào mầm (germ cell tumor), u lympho, và u tuyến ức. Trung thất cũng có thể có vẻ rộng trên phim chụp trước sau tại giường so với phim X quang ngực chuẩn sau trước hoặc nghiêng.
Tái phân phối mạch máu xảy ra khi động mạch và tĩnh mạch thùy trên phổi trở nên lớn hơn mạch máu thùy dưới. Dấu hiệu này chính xác nhất nếu mạch máu thùy trên có đường kính trên 3mm ở khoảng gian sườn thứ nhất. Nó thường xảy ra khi áp lực mao mạch phổi bít từ 12-19 mmHg. Khi áp lực mao mạch phổi bít tăng trên 19 mmHg, phù mô kẽ xảy ra với cắt cụt phế quản, đường Kerley B, và dày rãnh liên thùy. Tái phân phối mạch máu ở các thùy trên có lẽ hầu như luôn gặp ở những bệnh nhân tăng áp lực tĩnh mạch phổi mạn tính (bệnh van 2 lá, rối loạn chức năng thất trái) bởi vì cơ thể cố gắng duy trì lưu lượng máu và oxy hóa bình thường ở khu vực này. Một số tác giả tin rằng tái phân phối mạch máu là một đặc điểm chính của suy tim sung huyết, nhưng đặc biệt nó có thể là một dấu hiệu không hữu ích ở những bệnh nhân ICU có suy tim sung huyết. Ở những bệnh nhân này, tất cả động mạch phổi trong có vẻ lớn ra, làm rất khó đánh giá kích thước mạch máu trên và dưới. Hơn nữa, phim thường được chụp ở tư thế nằm, điều này có thể làm dãn lớn các mạch máu thùy trên phổi do hiện tượng ứ trệ dòng máu và không phải là tái phân phối thật sự.
X quang ngực không nhạy cảm trong việc phát hiện tràn dịch màng ngoài tim, và nó có thể không hữu ích trong việc xác định mực độ tràn dịch. Tràn dịch màng ngoài tim lượng ít rất khó phát hiện trên phim X quang ngực nhưng vẫn có thế gây chèn ép tim nếu tích tụ dịch nhanh chóng. Tuy nhiên, một bóng tim hình đồng hồ cát (hình 4-5) có thể gợi ý tràn dịch màng ngoài tim lượng lớn. Thường khó phân biệt dịch màng ngoài tim và lớn buồng tim.
Dãn lớn động mạch phổi trung tâm kèm co nhỏ mạch máu ngoại vi là một dấu hiệu điển hình trong tăng áp phổi (hình 4-6). Nếu động mạch phổi xuống bên phải có đường kính ngang trên 17mm thì được xem là dãn. Các dấu hiệu khác của tăng áp động mạch phổi bao gồm dãn lớn buồng tim (đặc biệt là thất phải) và vôi hóa động mạch phổi. Vôi hóa động mạch phổi xảy ra sau sự hình thành mảng xơ vữa trong động mạch và là một dấu hiệu hiếm nhưng đặc trưng cho tăng áp động mạch phổi nặng.
Dấu Westermark gặp ở những bệnh nhân có thuyên tắc phổi và biểu hiện bằng một vùng ít mạch máu ở phía sau mạch máu phổi bị tắc. Nếu nhồi máu phổi xảy ra, có thể thấy một thâm nhiễm dạng miếng chêm.
Dấu khuyết sườn là sự bào mòn bờ dưới xương sườn (Hình 4-8). Có thể thấy ở một số bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ và đó là do sự giãn bù trừ của động mạch gian sườn để làm tăng tuần hoàn ở mạch máu xa. Dấu hiệu này thường thấy nhất ở xương sườn số 4 và số 8. Cần phải nhận biết dấu hiệu có giá trị sống còn này bởi vì hẹp eo động mạch chủ có thể điều trị được bằng can thiệp qua da hay phẫu thuật lồng ngực.
Dấu hiệu quan trọng trong hình này là vôi hóa màng ngoài tim. Điều này có thể xảy ra trong các bệnh lý ảnh hưởng đến màng ngoài tim, như lao. Ở một bệnh nhân có những triệu chứng cơ năng và thực thể của suy tim, dấu hiệu này rất gợi ý chẩn đoán viêm màng ngoài tim co thắt.
Tài liệu tham khảo, tài liệu nên đọc và websites