Hội chứng thận hư là biểu hiện lâm sàng của bệnh cầu thận, do nhiều nguyên nhân, làm thay đổi tính thấm của màng đáy cầu thận đối với chất đạm, đặc trưng bằng tiểu đạm, tiểu lipid, giảm albumin máu, tăng lipid máu, phù và những rối loạn chuyển hóa khác.
Chẩn đoán hội chứng thận hư là nguyên phát khi loại trừ trên lâm sàng và xét nghiệm các nguyên nhân gây thứ phát.
Xét nghiệm thường quy: huyết đồ, tiền phẫu, đường huyết, BUN, creatinin máu, ion đồ, SGOT, SGPT, siêu âm bụng, siêu âm tim (nếu có nghi ngờ tràn dịch màng tim), X-quang phổi.
Xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán:
+ Chẩn đoán xác định: albumin máu, protid máu, điện di đạm máu, bilan lipid (triglyceride, HDL-C, LDL-c, cholesterol), đạm niệu 24 giờ, soi nước tiểu.
+ Chẩn đoán nguyên nhân: sinh thiết thận, ANA, Antids DNA, C3, C3, HbsAg, anti HCV, HIV* Marker ung thư như: CEA, AFP, CA 19.9, CA 125, CA 15-3, PSA, scc, CA72-4, NSE, CYPRA 21-1,…
Dựa vào các triệu chứng: tiểu đạm > 3,5 g/l,73m2da/24 giờ hoặc > 3 g/24 giờ; giảm albumin máu < 30 g/L; tăng lipid máu > 6,5 mmoL/ìít, tiểu lipid (trụ mỡ, hạt mỡ lưỡng chiết); phù.
Trong các triệu chứng trên, tiểu đạm là tiêu chuẩn chính để xác định hội chứng thận hư, các triệu chứng còn lại có thể ở những mức độ khác nhau hoặc không có.
Ở người lớn hội chứng thận hư, sinh thiết thận giúp chẩn đoán, hướng dẫn điều trị và tiên lượng bệnh.
Điều trị bệnh căn nguyên (nếu có). Điều trị hỗ trợ và biến chứng của hội chứng thận hư.
Điều trị đặc hiệu bằng thuốc ức chế miễn dịch trong hội chứng thận hư nguyên phát.
Điều trị theo kinh nghiệm.
Những biện pháp chung để kiểm soát đạm niệu.
Trong hội chứng thận hư thứ phát, một số nguyên nhân nếu điều trị khỏi hoặc loại bỏ thì hội chứng thận hư sẽ khỏi: hội chứng thận hư thứ phát do nguyên nhân nhiễm trùng, hội chứng thận hư thứ phát do thuốc hoặc dị nguyên…
2-3 g/ngày (không dùng thêm muối, không ăn thức ăn đã chế biến sẵn).
Chỉ định khi: phù không đáp ứng với tiết chế muối; phù nhiều gây phù giác mạc, khó thở, ảnh hưởng đến sinh hoạt; đang bị nhiễm trùng.
Cách dùng: dùng lợi tiểu uống hoặc tiêm mạch, tăng dần đến liều tối đa. Ưu tiên dùng lợi tiểu loại kháng aldosteron như spironolactone (verospirone, aldactone) hoặc phối hợp với hirosemide. Liều dùng verospirone bắt đầu từ 25 mg/ngày hoặc hirosemid bắt đầu từ 20 mg/ngày, tùy theo đáp ứng của bệnh nhân để điều chỉnh liều lợi tiểu, cần phải theo dõi số lượng nước tiểu, cân nặng hàng ngày và xét nghiệm điện giải đồ máu.
Chỉ truyền albumin cho những bệnh nhân phù nhiều và giảm thể tích tuần hoàn gây hạ huyết áp tư thế. Nếu albumin huyết thanh giảm < 25 g/1 tốt nhất là dùng albumin 20% hoặc 25% lọ 50 mL, 100 mL. Nếu albumin < 20 g/L có thể dùng albumin 20% loại 100 mL.
Điều trị tăng lipid máu ở hội chứng thận hư còn chưa thống nhất. Hầu hết các trường hợp, lipid máu sẽ trở về bình thường khi hội chứng thận hư lui bệnh. Chỉ điều trị những bệnh nhân có rối loạn lipid kéo dài và những bệnh nhân có nguy cơ cao bệnh tim mạch (tiền sử gia đình có người mắc bệnh tim mạch, hút thuốc, tăng huyết áp, có sẵn bệnh mạch vành), điều trị tránh nguy cơ bị viêm tụy cấp do triglyceride tăng quá cao.
Khi nghi ngờ có nhiễm trùng phải điều trị kháng sinh mạnh ngay. Những trường hợp có nguy cơ cao (trẻ em, người già): dùng kháng sinh dự phòng, chích ngừa vaccine, hoặc truyền globulin miễn dịch. Dựa vào kháng sinh đồ để cho kháng sinh phù hợp. Nếu cần thiết cần giảm liều hoặc ngừng corticoid và ức chế miễn dịch nếu nhiễm trùng nặng, khó kiểm soát.
Điều trị phòng ngừa: tránh nằm bất động hoặc giảm thể tích tuần hoàn. Nếu có tiền sử huyết khối tắc mạch trước và có các yếu tố nguy cơ khác thì phải dùng kháng đông dự phòng. Điều trị huyết khối: thuốc kháng đông phải dùng lâu dài, tới khi hội chứng thận hư ổn định.
Tiểu đạm nhiều và albumin máu giảm nặng làm giảm thể tích tuần hoàn gây hạ áp tư thế hoặc trụy tuần hoàn mặc dù không dùng lợi tiểu. Tổn thương thận cấp do nguyên nhân này đáp ứng tốt với truyền albumin ưu trương hoặc những loại dịch khác làm tăng thể tích huyết tương. Một số bệnh nhân tồn thương thận cấp không giảm thề tích tuần hoàn mà do phù nề mô kẽ hoặc tắc nghẽn trong ống thận có đáp ứng tốt với lợi tiểu quai.
Năng lượng cần đạt từ > 35 kcal/kg/ngày.
Đạm: ăn hạn chế (nếu không suy thận: 1 g/kg/ngày + lượng đạm mất theo nước tiểu; suy thận: 0,6-0,8 g/kg/ngày + lượng đạm mất theo nước tiểu).
Truyền đạm hoặc albumin không thích hợp vì giá đắt tiền và mất nhanh theo nước tiểu. Bổ sung thêm vitamin D nếu thiếu.
(khi chưa có kết quả mô bệnh học sinh thiết thận việc điều trị ức chế miễn dịch dựa theo khuyến cáo của Bộ Y tế năm 2015).
Trường hợp chẩn đoán xác định là hội chứng thận hư nguyên phát nhưng không sinh thiết thận được (do chống chỉ định sinh thiết thận, bệnh nhân không đồng ý hoặc phù quá nhiều) thì tiến hành điều trị khởi đầu có thể áp dụng theo phác đồ dưới đây bằng corticoid như đối với sang thương tối thiểu:
– Corticoid (prednisolone, prednisone, methyprednisolone, trong đó 4 mg methyprednisolone tương đương với 5 mg prednisolone)
+ Liều tấn công: prednisolone 5 mg dùng liều 1- mg/kg/ngày kéo dài 1-2 tháng, uống cả liều vào 1 lần trước 8 giờ sáng sau ăn no (liều tấn công corticoid không được vượt quá 80 mg prednisolone/ngày).
+ Liều củng cố (bắt đầu khi protein niệu 24 giờ âm tính): prednisolone 5 mg dùng liều 0,5 mg/kg/ngày, kéo dài 4-6 tháng.
+ Liều duy trì: prednisolone 5-10 mg/ngày dùng cách ngày, kéo dài hàng năm.
+ Cần theo dõi các biến chứng như: nhiễm khuẩn, tăng huyết áp, đái tháo đường, xuất huyết tiêu hóa, rối loạn tâm thần, hội chứng giả Cushing,…
■ Thuốc ức chế miễn dịch khác
Trong trường hợp đáp ứng kém với corticoid, không đáp ứng, hay tái phát hoặc có suy thận kèm theo nên phối hợp điều trị với một trong số các thuốc giảm miễn dịch dưới đây. Nếu bệnh nhân không đáp ứng, hoặc có tác dụng phụ của thuốc không dự phòng được, nên xét chỉ định sinh thiết thận để hướng dẫn điều trị theo tổn thương bệnh học.
+ Cyclophosphamide (50 mg): dùng liều 2-2,5 mg/Kg/ngày, tấn công 4-8 tuần. Khi protein niệu âm tính thì duy trì 50mg/ngày trong thời gian 4-8 tuần, cần theo dõi và duy trì số lượng bạch cầu không dưới 4,5 giga/lit.
+ Chlorambucil 2 mg: dùng liều 0,15-0,2 /mg/kg/ngày, kéo dài 4-8 tuần, sau đó duy trì liều 0,1 mg/kg/ngày.
+ Azathioprine (50 mg): dùng liều 1-2 mg/kg/ngày. cần theo dõi số lượng bạch cầu và tiểu cầu.
+ Cyclosporine A (25 mg, 50 mg, 100 mg): dùng liều 3- 5mg/kg/ngày, uống chia hai lần, trong thời gian 6-12 tháng hoặc hơn nữa tùy từng trường hợp.
+ Mycophenolate mofetil (250 mg, 500 mg) hoặc mycophenolate acid (180 mg, 360 mg, 720 mg): dùng liều 1-2 g/ngày (uống chia 2 lần mỗi ngày) trong 6 đến 12 tháng.
Lưu ý: Các thuốc ức chế miễn dịch trên được dùng khi bệnh nhân không có đáp ứng với corticoid hoặc có nhiều tác dụng phụ, cần phải giảm liều hoặc ngừng corticoid.
Prednisone 1 mg/kg/ngày (tối đa 80 mg) hoặc prednisone 2 mg/kg/cách ngày (tối đa 120 mg) đến khi hết đạm niệu, điều trị tối thiểu 4 tuần, có thể kéo dài tới 16 tuần trước khi cho là kháng corticoid. Tiếp theo: 2 mg/kg/cách ngày/4 tuần hoặc giảm 5 mg mỗi tuần. Giảm dần trong 2- 3 tháng. Ngưng đột ngột corticoid hoặc giảm liều nhanh ngay sau lui bệnh có thể gây tái phát.
(đáp ứng với corticoid lần đầu nhưng tái phát < 2 lần/6 tháng sau khi ngưng thuốc): điều trị như lần đầu.
Phải tăng liều prednisone tới mức tạo được lui bệnh, sau đó giảm liều nhanh tới mức mức tái phát xảy ra thì giảm chậm lại để tránh tái phát.
(đáp ứng với corticoid lần đầu nhưng tái phát > 2 lần/6 tháng sau khi ngưng thuốc) hoặc lệ thuộc corticoid (đạm niệu tăng lại khi đang giảm liều corticoid hoặc sau ngưng thuốc trong vòng 1 tháng):
Mycophenolate mofetil (MMF) 500-1000 mg (hai lần trong ngày) trong 1-2 năm.
Ít gặp, thường do chẩn đoán lầm với xơ cầu thận khu trú từng vùng (do giới hạn số cầu thận khi sinh thiết), cần sinh thiết lại để xác định chẩn đoán. Điều trị như tái phát thường xuyên hoặc lệ thuộc corticoid.
Prednisone lmg/kg/ngày (tối đa 80 mg) hoặc prednisone 2 mg/kg/cách ngày (tối đa 120 mg), điều trị tối thiểu 4 tuần, có thể kéo dài tới 16 tuần.
Nếu có chống chỉ định tương đối hoặc không dung nạp đến corticosteroid liều cao (tiểu đường không kiểm soát được, điều kiện tâm thần, loãng xương nghiêm trọng,…) thì liệu pháp CNIs (cyciosporine và tacroiimus) được coi là phương pháp điều trị đầu tiên cho bệnh nhân.
dùng thuốc độc tế bào để duy trì lui bệnh, thời gian không quá 3 tháng (giống điều trị tái phát trong MCD).
Cyclosporine 3-5 mg/kg/ngày trong 4-6 tháng.
+ Tháng 1: Methylprednisolone (1 g/ngày) truyền tĩnh mạch trong 3 ngày liền, sau đó uống methyprednisolone (0,5 mg/kg/ngày) trong 27 ngày.
+ Tháng 2; uống chlorambucil (0,15-0,2 mg/kg/ngày) hoặc uống cyclophosphamide (2,0 mg/kg/ngày) trong 30 ngày. Ưu tiên sử dụng cyclophosphamide hơn là chlorambucil để điều trị ban đầu.
+ Tháng 3: lặp lại tháng 1
+ Tháng 4: lặp lại tháng 2
+ Tháng 5: lặp lại tháng 1
+ Tháng 6: lặp lại tháng 2
Liệu pháp CNI
Cyclosporine: 3,5-5 mg/kg/ngày cho uống trong hai lần chia đều nhau liều cách nhau 12 giờ, với prednisone 0,15 mg/kg ngày, trong 6 tháng. Hoặc
+ Ngừng sử dụng CNI ở bệnh nhân không đạt được hồi phục hoàn toàn hoặc một phần sau 6 tháng điều trị.
+ Giảm liều CNI trong khoảng 4-8 tuần đến mức khoảng 50% liều khởi đầu, với điều kiện là sự thuyên giảm được duy trì và không xảy ra độc tính thận do CNI gây ra và tiếp tục ít nhất là 12 tháng.
+ Nồng độ CNI trong máu được theo dõi thường xuyên trong giai đoạn điều trị ban đầu và bất cứ khi nào có sự gia tăng SCr > 20% trong quá trình điều trị.
Điều trị với liệu pháp dẫn đến sự thuyên giảm ban đầu.
Nếu đáp ứng với liệu pháp ban đầu gồm corticosteroid/ alkylating-agent chu kỳ 6 tháng thì được lặp lại chỉ một lần để điều trị tái phát.
Bệnh nhân có IMN có giảm albumin huyết thanh < 2,5 g/dl và có nguy cơ bị huyết khối, được xem xét sử dụng thuốc chống đông máu điều trị dự phòng với warfarin uống.
Điều trị corticosteroid liều thấp kết hợp với cyclophosphamide uống hoặc MMF trị liệu ban đầu giới hạn dưới 6 tháng.
Điều trị như sang thương tối thiểu (MCD) hoặc xơ cầu thận khu trú (FSGS): 65% có đáp ứng nhưng đa số chỉ lui bệnh một phần, tái phát thường xuyên hoặc lệ thuộc corticoid. Những bệnh nhân có tiểu máu thường ít đáp ứng với corticoid hơn bệnh nhân không tiểu máu.
Nếu hội chứng thận hư không đáp ứng với điều trị thuốc ức chế miễn dịch và bệnh nhân bị suy thận nặng thì dùng các biện pháp không đặc hiệu để làm giảm đạm niệu:
Chế độ ăn hạn chế protein:
Dùng thuốc ức chế men chuyển, thuốc ức chế thụ thể Angiotensin n. Kiểm soát huyết áp < 125/85 mmHg (nếu bệnh nhân dung nạp được). Thuốc kháng viêm nonsteroid (ít sử dụng vì nguy cơ bị viêm dạ dày, xuất huyết tiêu hóa).
Nếu triệu chứng nhẹ, không suy thận: tái khám mỗi tháng/lần. Nếu triệu chứng nặng hoặc suy thận: tái khám 1-2 tuần/lần.
Tác giả: BS. Trần Văn Vũ