Hướng dẫn lâm sàng tạm thời trong điều trị bệnh đậu mùa khỉ

Những bệnh nhân cần được xem xét điều trị có thể bao gồm:

  • Những người mắc bệnh nặng (ví dụ: bệnh xuất huyết, nhiễm khuẩn huyết, viêm não hoặc các bệnh lý khác cần nhập viện)
  • Những người có thể có nguy cơ cao mắc bệnh nặng:
    • Những người bị suy giảm miễn dịch (ví dụ: vi rút suy giảm miễn dịch ở người HIV/ hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, bệnh bạch cầu leukemia, ung thư hạch, bệnh ác tính, cấy ghép tạng, điều trị bằng các chất alkyl hóa, chất chống chuyển hóa, xạ trị, chất ức chế yếu tố hoại tử khối u, corticosteroid liều cao, là người nhận ghép tế bào gốc tạo máu <24 tháng sau ghép hoặc ≥ 24 tháng nhưng bị bệnh mảnh ghép chống ký chủ GVHD hoặc bệnh tái phát, hoặc mắc bệnh tự miễn có suy giảm miễn dịch như một yếu tố lâm sàng)
    • Trẻ em, đặc biệt là bệnh nhân dưới 8 tuổi
    • Những người có tiền sử hoặc hiện tại mắc bệnh viêm da dị ứng, những người có các tình trạng da tróc vảy hoạt động khác (ví dụ: chàm, bỏng, chốc lở, nhiễm virus varicella zoster, herpes simplex, mụn trứng cá nặng, viêm da do tã nặng với các vùng da bị bong tróc rộng, bệnh vẩy nến hoặc bệnh Darier [dày sừng nang lông])
    • Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú
    • Những người có một hoặc nhiều biến chứng (ví dụ: nhiễm trùng da do vi khuẩn thứ phát; viêm dạ dày ruột có buồn nôn/nôn mửa nặng, tiêu chảy hoặc mất nước; viêm phế quản phổi; bệnh đồng thời hoặc các bệnh đi kèm khác)
  • Những người bị nhiễm virus đậu mùa khỉ bao gồm vô tình nhiễm vào mắt, miệng hoặc các khu vực giải phẫu khác nơi nhiễm virus đậu mùa khỉ có thể tạo thành một mối nguy hiểm đặc biệt (ví dụ: bộ phận sinh dục hoặc hậu môn)

 

Các điều trị có sẵn để điều trị bệnh đậu mùa ở khỉ

Hiện tại, không có phương pháp điều trị nào được phê duyệt đặc biệt cho các trường hợp nhiễm virus đậu mùa khỉ. Tuy nhiên, thuốc kháng virus được phát triển để sử dụng cho bệnh nhân đậu mùa có thể chứng minh lợi ích chống lại bệnh này. Các biện pháp y tế sau đây hiện có sẵn từ Kho dự trữ Quốc gia Chiến lược (SNS) như là các lựa chọn để điều trị bệnh đậu mùa khỉ:

Tecovirimat (còn được gọi là TPOXX, ST-246)

TPOXX là một loại thuốc kháng vi-rút được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận để điều trị bệnh đậu mùa ở người lớn và trẻ em. Không có dữ liệu về hiệu quả của tecovirimat trong điều trị nhiễm đậu mùa khỉ ở người, nhưng các nghiên cứu sử dụng nhiều loài động vật khác nhau đã chỉ ra rằng tecovirimat có hiệu quả trong điều trị bệnh do orthopoxvirus gây ra. Các thử nghiệm lâm sàng trên người cho thấy thuốc an toàn và chỉ có tác dụng phụ nhỏ. CDCcó quy trình (compassionate use) cho phép sử dụng tecovirimat dự trữ để điều trị bệnh đậu mùa khỉ trong đợt bùng phát. Tecovirimat có sẵn dưới dạng thuốc viên hoặc thuốc tiêm. Đối với trẻ em cân nặng dưới 28,6 pound (~13 kg), có thể bẻ nhỏ thuốc và trộn thuốc với thức ăn ở dạng bán rắn (semi - solid food).

 

Vaccinia Globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (VIGIV)

VIGIV được FDA cấp phép để điều trị các biến chứng do tiêm vắc-xin đậu mùa bao gồm bệnh chàm do tiêm chủng, bệnh đậu mùa tiến triển, bệnh đậu mùa toàn thân nặng, nhiễm đậu mùa ở những người có bệnh da và nhiễm bệnh do virus tiêm chủng gây ra (ngoại trừ các trường hợp viêm giác mạc đơn độc). CDC có quy trình độc lập cho phép sử dụng VIGIV để điều trị các orthopoxvirus (bao gồm cả virus đậu mùa khỉ) trong đợt bùng phát.

Không có dữ liệu về hiệu quả của VIG trong điều trị nhiễm virus đậu mùa khỉ. Sử dụng VIG không có lợi ích nào được chứng minh trong điều trị bệnh đậu mùa khỉ và người ta vẫn chưa biết liệu một người bị bệnh đậu mùa khỉ nặng có được hưởng lợi khi điều trị bằng VIG hay không. Tuy nhiên, các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể cân nhắc việc sử dụng nó trong những trường hợp nghiêm trọng.

VIG có thể được xem xét để sử dụng dự phòng cho những người phơi nhiễm bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng chức năng tế bào T, chống chỉ định tiêm vắc-xin bệnh đậu mùa sau khi tiếp xúc với virus đậu mùa khỉ.

 

Cidofovir (còn được gọi là Vistide)

Cidofovir là một loại thuốc kháng vi-rút được FDA chấp thuận để điều trị viêm võng mạc do cytomegalovirus (CMV) ở bệnh nhân mắc Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Không có dữ liệu về hiệu quả của Cidofovir trong điều trị các trường hợp mắc bệnh đậu mùa ở người. Tuy nhiên, nó đã được chứng minh là có hiệu quả chống lại các orthopoxviruse  trong ống nghiệm và trên động vật. CDC có quy trình cho phép sử dụng Cidofovir dự trữ để điều trị các bệnh do orthopoxviruse (bao gồm cả virus đậu mùa khỉ) trong đợt bùng phát. Người ta vẫn chưa biết liệu một người bị nhiễm bệnh đậu mùa khỉ nặng có được hưởng lợi từ việc điều trị bằng Cidofovir hay không, mặc dù việc sử dụng nó có thể được xem xét trong những trường hợp như vậy. Brincidofovir có thể có tính an toàn được cải thiện hơn Cidofovir. Độc tính nghiêm trọng trên thận hoặc các tác dụng ngoài ý muốn khác chưa được ghi nhận khi điều trị nhiễm trùng cytomegalovirus với Brincidofovir so với điều trị bằng Cidofovir.

 

Brincidofovir (còn được gọi là CMX001 hoặc Tembexa)

Brincidofovir là một loại thuốc kháng vi-rút đã được FDA chấp thuận vào ngày 4 tháng 6 năm 2021 để điều trị bệnh đậu mùa ở người ở người lớn và bệnh nhi, kể cả trẻ sơ sinh. Không có dữ liệu về hiệu quả của Brincidofovir trong điều trị các trường hợp mắc bệnh đậu mùa ở người. Tuy nhiên, nó đã được chứng minh là có hiệu quả chống lại các vi khuẩn orthopoxvirus trong  các nghiên cứu trên động vật và ống nghiệm  . CDC hiện đang phát triển EA-IND để giúp tạo điều kiện sử dụng Brincidofovir như một phương pháp điều trị bệnh đậu mùa ở khỉ. Tuy nhiên, Brincidofovir hiện không có sẵn trên SNS.

 

Nguồn: CDC

return to top