Sau khi công bố phát hiện ra khí thuần túy hay “Dephlogisticated air” – Oxygen vào năm 1775, Joseph Priestley đã đưa ra một số khái niệm ban đầu về cách ứng dụng oxygen trong y học cũng như các hạn chế của nó. Ông từng phát biểu :
“From the greater strength and vivacity of the flame of a candle, in this pure air, it may be conjectured, that i might be peculiarly salutary to the lungs in certain morbid cases, when the common air would not be sufficient to carry off the putrid effluvium fast enough. But, perhaps, we may also infer from these experiments, that though pure dephlogisticated air might be very useful as a medicine, it might not be so proper for us in the usual healthy state of the body; for, as a candle burns out much faster in dephlogisticated than in common air, so we might, as may be said, live out too fast, and the animal powers be too soon exhausted in this pure kind of air. A moralist, at least, may say, that the air which nature has provided for us is as good as we deserve “
Đại ý đoạn văn trên, ông dựa vào hiện tượng ngọn nến cháy mạnh và sang hơn nên theo ông dòng khí thuần khiết này có thể có ích cho người bệnh. Tuy nhiên, nó sẽ ảnh hưởng không tốt đến người khỏe mạnh bình thường do sẽ “đốt cháy tuổi thọ” của họ nhanh hơn. Như thế, từ thế kỷ 18, các nhà khoa học đã có ý tưởng ban đầu về liêu pháp thở oxi.
Sang đến năm 1783, một bác sĩ người Pháp tên Caillens là người đầu tiên công bố sử dụng oxi trên bên nhân của ông ta (một người phụ nữ trẻ bị lao) là hiệu quả. Vào năm 1799, 2 thành viên cốt cán của Hội Trăng Tròn Birmingham – The Lunar Society of Birmingham là James Watt và Humphrey Davy đã thành lập nên Viện nghiên cứu phổi – Pneumatic Institution nhằm nghiên cứu thử nghiệm tác dụng oxygen đến các bệnh nhân bị hen, mệt mỏi … Họ đã sử dụng oxygen pha loãng với tỷ lệ FI02 theo quan niệm hiện tại là 23 – 28%. Tuy nhiên vào đầu nằm những nam 1800s, viện nghiên cứu của họ đã bị đóng cửa nhằm xây bệnh viện điều trị nạn sốt phát ban xảy ra vào 1800.
Phải đến gần 1 thế kỷ sau đó, vào đầu thế kỷ 20, dưới ảnh sáng của các phát kiến vật lý về áp suất riêng phần O2 bởi 2 nhà vật lý người Đức Adolph Fick và Pháp Paul Bert, chúng ta mới hiểu rõ hơn về cơ chế trao đổi oxi cũng như sự khác biệt trong phân áp oxi máu động mạch và tĩnh mạch. Dựa trên các phát kiến đó, John Scott Haldane – người được xem là cha đẻ của oxygen therapy hiện đai đã công bố “Liêu pháp sử dụng oxygen” – “The therapeutic administration of oxygen” đầu tiên trên thế giới vào 1917 tại Đại học Oxford. Trong đó, ông đã mô tả cách điều hòa cơ thể thông khí nhờ vào phân áp CO2 máu, ảnh hưởng của nó lên pH máu và cả khái niệm đầu tiên về thiếu oxi máu – Anoxaemia.
Theo ông, 3 cơ chế chính bao gồm : thiếu O2, thiếu Hb và thiếu tuần hòa. Chính liệu pháp oxygen của ông đã cứu mạng hàng ngàn người lính trong Thế Chiến Thứ 1 khi vũ khí hóa học lần đầu tiên được đưa vào sử dụng : khí phosgene. Loại khí này khi vào phổi sẽ phản ứng với nước trong phế nang để tạo acid hydrochloric (HCl) do đó gây khó thở và phù phổi cấp – ARDS sau 6h. Có đến 17 000 người nhiễm độc khí này trong Thế Chiến Thứ 1 và chính liệu pháp thở oxi của Haldane trong 1 bộ thiết bị gọi là “ Haldane equipment” đã cứu sống hàng ngàn người trong số đó. Ông đã đạt nền móng cho liệu pháp thở oxi hiện đai, một liệu pháp mà ngày nay được xem là căn bản trong cấp cứu và hồi sức tích cực.
Xem toàn bộ tài liệu TẠI ĐÂY
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh