Vẩy nến là bệnh tự miễn mãn tính về da liễu có thể khiến làn da bạn khô, nứt nẻ, đỏ, bong vẩy trắng và ngứa.
Tỷ lệ mắc bệnh vẩy nến khá cao trong cộng đông, ví dụ ở Mỹ, ước tính có khoảng 3% dân số bị vẩy nến ( theo Viện Sức khỏe Quốc gia Hoa Kỳ). Vẩy nến phổ biến ở người da trắng hơn là những người có các màu da khác và có thể xảy ra ở tất cả các độ tuổi. Bệnh vẩy nến xuất hiện lần đầu trong độ tuổi từ 15-35 tuổi.
Vẩy nến là bệnh di truyền và có thể di truyền trong gia đình. Tuy nhiên, nếu cha mẹ bạn bị vẩy nến không có nghĩa là chắc chắn bạn cũng sẽ bị vẩy nến, mà điều này có nghĩa là, nhiều khả năng một người nào đó trong gia đình bạn có thể sẽ bị vẩy nến.
Bệnh vẩy nến là bệnh di truyền hoàn toàn, nguyên nhân không phải là do các yếu tố như stress, dị ứng, nhiễm trùng hay các khiếm khuyết. Nhưng đôi khi, các yếu tố này có thể sẽ gây ra một cơn bệnh vẩy nến bùng phát nặng hơn.
Vẩy nến là bệnh di truyền, cũng có nghĩa là vẩy nến không phải bệnh truyền nhiễm. Bệnh không thể lây từ người này sang người kia, hoặc lan từ vùng này sang vùng khác trên cơ thể thông qua tiếp xúc thông thường.
Theo Hiệp hội Vẩy nến Quốc gia Hoa Kỳ, hơn 30% người bị vẩy nến sẽ xuất hiện bệnh viêm khớp vẩy nến. Viêm khớp vẩy nến đặc trưng bởi những cơn đau và sưng phù các khớp, đặc biệt là khớp ngón tay, ngón chân, khớp cổ, khớp lưng dưới, khớp đầu khối và khớp mắt cá chân.
Viêm khớp vẩy nến phổ biến ở nam giới hơn phụ nữ và thường xuất hiện ở độ tuổi từ 30-50 tuổi. Phát hiện sớm bệnh vẩy nến và viêm khớp vảy nến giúp bạn được điều trị kịp thời, tránh làm cho bệnh nặng hơn.
Mặc dù vẩy nến có thể xuất hiện ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể, nhưng thường gặp nhất là ở da khuỷu tay, đầu gối, da đầu, thân mình và thậm chí là cả ở móng tay. Nếu bệnh vẩy nến xuất hiện ở móng tay thì móng tay bạn sẽ có màu vàng hoặc nâu. Trong trường hợp không được điều trị, bạn có thể sẽ bị bật móng, mất móng.
Bác sỹ da liễu sẽ chẩn đoán bệnh vẩy nến, thông qua hỏi han, xem xét tiền sử bệnh, khám các tổn thương trên da và sinh thiết da khi cần thiết.
Một nghiên cứu chỉ ra rằng, những người bị bệnh vẩy nến sẽ có nguy cơ mắc các bệnh khác cao hơn, ví dụ như bị đau tim hay đột quỵ. Nguyên nhân là do tình trạng viêm mãn tính sẽ gây tổn thương các mạch máu, dẫn đến các vấn đề về tim mạch.
Các căn bệnh khác mà người bị bệnh vẩy nén cũng có nguy cơ mắc cao hơn, bao gồm: hội chứng ruột kích thích và tiểu đường. Do vậy, việc kiểm tra thường xuyên các dấu hiệu của những căn bệnh này khi bạn bị vẩy nến là rất quan trọng.
Các yếu tố dẫn đến bệnh vẩy nến sẽ đặc trưng cho từng cá nhân, nhưng có một số yếu tố thường gặp, bao gồm căng thẳng, tổn thương da, hút thuốc, uống rượu, mang thai, thay đổi nội tiết, thời tiết lạnh và nhiễm vi khuẩn/virus.
Vẩy nến có thể sẽ nghiêm trọng hơn ở một số người có hệ miễn dịch suy yếu, ví dụ như ở bệnh nhân HIV/AIDS, những người đang điều trị hóa trị bệnh ung thư hoặc những người mắc các rối loạn tự miễn khác.
Một số loại thuốc nhất dịnh có thể gây ra đợt bệnh vẩy nến bùng phát hoặc làm các triệu chứng sẵn có nặng hơn. Những loại thuốc này bao gồm Lithium (dùng để điều trị chứng rối loạn lưỡng cực), Inderal (dùng để điều trị tăng huyết áp), Quinidine (thuốc tim mạch), Indomethacin (điều trị viêm khớp), các thuốc chống sốt rét và một số loại thuốc chẹn beta.
Trong những trường hợp nhẹ, các loại thuốc bôi ngoài da như corticosteroid, kháng sinh hoặc thuốc kháng nấm có thể sẽ được sử dụng để điều trị các tổn thương trên da.
Với những trường hợp nặng hơn, phép trị liệu bằng ánh sáng có thể sẽ được áp dụng vì có thể nhắm đến việc điều trị các nguyên nhân gây bệnh ở mức độ tế bào, có tác dụng tương tự như Enbrel. Gần đây, Viện Sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ đưa ra báo cáo cho biết thuốc Stelara sẽ hiệu quả hơn Enbrel trong các trường hợp bị vẩy nến nặng.
Hiện nay, một số chế phẩm sinh học đã được nghiên cứu và đưa vào điều trị bệnh vẩy nến, chẳng hạn như Secukinumab (biệt dược trước đây là Cosentyx).
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh