1. Điều trị rối loạn Lipid máu, cùng kiểm soát đường huyết và huyết áp là 3 trụ cột chính trong phòng ngừa biến chứng và tử vong tim mạch ở BN ĐTĐ
2. Thuốc điều trị rối loạn mỡ máu được lựa chọn là Statin vì nó (1) làm giảm LDL-C là nguyên nhân chính gây xơ vữa động mạch, và (2) làm giảm biến cố tim mạch cả trong dự phòng tiên phát (ở BN chưa có biến chứng tim mạch) và dự phòng thứ phát (ở BN đã có biến chứng tim mạch).
3. Điều trị Statin càng sớm càng tốt: Vì BN ĐTĐ được xếp vào nhóm nguy cơ tim mạch cao/ rất cao. Tất cả các BN ĐTĐ típ 2 ≥ 40 tuổi hoặc BN trẻ hơn nhưng có yếu tố nguy cơ tim mạch (béo, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, biến chứng thận...) đều có chỉ định điều trị Statin
4. Điều trị Statin càng lâu càng tốt: Statin có bằng chứng hiệu quả bảo vệ tim mạch ở BN từ 40 - 75 tuổi, tuy nhiên với những người > 75 tuổi mà khỏe mạnh, dự kiến còn sống lâu thì vẫn được khuyên nên dùng tiếp Statin. Một số BN hay bỏ thuốc vì họ không nhìn được con số Lipid máu dễ dàng như đo huyết áp hay đo đường huyết mao mạch, và càng không thể nhìn được mảng xơ vữa ở mạch máu của họ.
5. Có uống thuốc nhưng phải đạt mục tiêu: Mục tiêu LDL-C phải < 2,6 hoặc < 1,8 hoặc < 1,4 mmol/L tùy BN đã có biến chứng tim mạch chưa, hay nguy cơ tim mạch cao hay trung bình. Ngay mục tiêu đơn giản nhất là < 2,6 mmol/L cũng thấp hơn rất nhiều so với ngưỡng ở người bình thường (ghi trên tờ giấy xét nghiệm) là < 3,4 mmol/L.
6. Liều thuốc Statin là rất quan trọng: Cũng giống như khi dùng thuốc huyết áp hay đái tháo đường, BN có thể cần dùng thuốc Statin liều cao để đạt được mục tiêu. Nếu đã dùng liều cao mà vẫn chưa đạt mục tiêu LDL-C thì cần phối hợp thêm thuốc hạ Lipid máu khác.
7. Khi đã đạt mục tiêu mỡ máu thì có được ngừng hay giảm liều thuốc không ? Không vì thuốc Statin có có thêm các tác dụng chống viêm, ổn định mảng xơ vữa, thậm chí làm giảm mảng xơ vữa. Nó được coi là thuốc bảo vệ tim mạch nên cần duy trì lâu dài ở BN đái tháo đường.
8. Khi suy thận vẫn cần uống thuốc: BN đái tháo đường có suy thận nghĩa là nguy cơ tim mạch cao hơn, mục tiêu LDL-C cần thấp hơn nên càng cần điều trị rối loạn Lipid máu. Hơn nữa các thuốc Statin đã được chứng minh có lợi ích trên thận.
9. Khi Triglyceride máu cao thì phải điều trị thuốc Fibrate nhưng cũng có thể vẫn cần điều trị thuốc Statin: Nếu Triglyceride máu > 11,2 mmol/L thì BN sẽ được cho điều trị ưu tiên bằng thuốc Fibrate để phòng ngừa viêm tụy cấp, nhưng nếu Triglyceride > 5,6 mmol/L và < 11,2 mmol/L thì có thể cho điều trị Fibrate nếu nguy cơ tim mạch thấp hoặc Statin nếu nguy cơ tim mạch cao. Lưu ý là Statin có tác dụng làm giảm Triglyceride khoảng 10-30%.
10. Tăng men gan không phải là chống chỉ định của Statin: Có lẽ nguyên nhân phổ biến nhất gây tăng men gan nhẹ ở BN đái tháo đường là gan nhiễm mỡ, và họ là BN cần được điều trị tích cực rối loạn lipid máu chứ không phải là thuốc bổ gan. Tỷ lệ thuốc Statin gây tăng men gan là rất thấp.
11. Không uống Statin cách ngày: Phần lớn các Statin được chỉ định uống vào buổi tối, nhưng với các Statin có tác dụng dài như Atorvastatin , Rosuvastatin, Pitavastatin thì có thẻ uống bất cứ lúc nào trong ngày nhưng không đủ để có tác dụng khi uống cách ngày.
12. Làm gì khi nghi ngờ không “dung nạp” với Statin: Khi bị mệt, đau cơ, yếu cơ hoặc các tác dụng phụ khác nghi do Statin thì nên báo Bác sĩ. Vì thuốc này rất quan trọng với BN đái tháo đường, việc ngừng thuốc có thể gây hậu quả không tốt, nên khi có các biểu hiện trên thì hướng xử trí có thể là giảm liều thuốc Statin xuống liều thấp nhất, đổi sang Statin khác, uống Statin 2-3 lần/ tuần, hoặc đổi sang thuốc điều trị rối loạn mỡ máu khác. Sau đó sẽ đánh giá để quyết định hướng điều trị tiếp.
Biên soạn: TS Nguyễn Quang Bảy