✴️ Thuốc kháng virus (antiviral drugs)

Nội dung

ĐẠI CƯƠNG

Khái niệm chung về virus

Virus, còn gọi là siêu vi khuẩn hay siêu vi trùng, là một vật thể nhỏ xâm nhiễm vào cơ thể sống, thuộc loại ký sinh trùng. Virus có tính ký sinh nội bào bắt buộc; chúng chỉ có thể sinh sản bằng cách xâm chiếm tế bào khác vì chúng thiếu bộ máy di truyền để tự sinh sản. Thuật ngữ virus thường chỉ các vật thể xâm nhiễm sinh vật nhân chuẩn ( sinh vật đa bào hay đơn bào ), trong khi thuật ngữ thực khuẩn thể ( bacteriophage hay phage ) được dùng để chỉ các vật thể xâm nhiễm sinh vật nhân sơ ( vi khuẩn hoặc vi khuẩn cổ ). Mọi virus đều có 2 thành phần : nucleic acid và vỏ bọc bên ngoài. Nucleic acid của virus gồm có 1 hoặc 2 chuỗi DNA ( deoxyribonucleic acid  ) hoặc RNA ( ribonucleic acid  ). Vỏ protein được gọi là capsid, một số virus có cả vỏ lipoprotein. Lớp vỏ của virus có thể chứa các protein kháng nguyên. Virus phải sống ký sinh trong tế bào vật chủ, sự sao chép của chúng phụ thuộc chủ yếu vào các quá trình tổng hợp của tế bào vật chủ.

Virus có nucleic acid  là DNA

Loại DNA virus bao gồm : Poxvirus ( gây bệnh đậu mùa ), Herpesvirus ( gây bệnh thuỷ đậu, herpes, zona ), Adenovirus ( gây viêm kết mạc, viêm họng ), HepaDNAvirus ( gây viêm gan B ) và Human papillomavirus ( HPV )( gây bệnh hột cơm ).

Sự phát triển, nhân lên : sau khi thâm nhập được vào nhân tế bào vật chủ, ADN virus được sao mã sớm vào RNA thôngtin ( messenger RNA - mRNA ) bởi mRNA polymerase của tế bào vật chủ, mRNA được dịch mã theo cách thông thường của tế bào vật chủ để thành các protein đặc hiệu của virus. Riêng virus đậu mùa, do có RNA polymerase ( RNAP, RNApol )( là enzyme xúc tác cho quá trình tổng hợp RNA ) riêng nên có thể sao chép ngay trong bào tương của tế bào vật chủ.

Virus có nucleic acid là RNA

Loại RNA virus bao gồm : Rubellavirus ( gây bệnh Rubeon ( Rubella, còn gọi là bệnh sởi Đức - German measles )), Rhabdovirus ( gây bệnh dại ), PicoRNAvirus ( gây bệnh bại liệt, viêm màng não, cảm lạnh ), Arenavirus ( gây viêm màng não, sốt Lassa - Lassa fever...), Arbovirus ( gây sốt vàng ), Orthomyxovirus ( gây bệnh cúm ), Paramyxovirus ( gây bệnh sởi, quai bị ).

Sự phát triển nhân lên : với RNA virus, việc sao chép trong tế bào vật chủ sẽ dựa vào hoặc là các enzyme trong virion ( hạt virus ) để tổng hợp mRNA cho nó, hoặc là RNA virus được dùng như chính mRNA của nó. mRNA được dịch mã thành các protein virus, kể cả RNA polymerase, enzyme chi phối sự tổng hợp nhiều mRNA virus.

Một nhóm RNA virus trong loại này là Retrovirus có chứa enzyme sao mã ngược RT ( RT = reverse transcriptase, còn gọi là RNA-dependent DNA polymerase ), tạo DNA từ RNA virus. Sau đó, bản sao DNA tích hợp vào bộ gen( genome ) của vật chủ ( lúc đó được coi như provirus ) và được sao mã thành cả RNA genome và mRNA để dịch mã thành các protein virus ( HIV ).

Trong nhiều bệnh nhiễm virus, đỉnh điểm của sự sao chép của virus là vào ngay trước lúc triệu chứng lâm sàng xuất hiện. Vì vậy để đạt hiệu quả điều trị tối ưu nên bắt đầu điều trị sớm. Các thuốc kháng virus cần phải ngăn cản sự xâm nhập của virus vào tế bào và phải có hoạt tính với virus trong tế bào, nghĩa là phải có tính đặc hiệu.

Các giai đoạn phát triển nhân lên của virus và cơ sở dùng thuốc kháng virus

Dựa vào các bước trong quá trình sao chép, nhân đôi của virus mà nghiên cứu các thuốc kháng virus, theo bảng sau :

Bảng 1. Các giai đoạn sao chép, nhân lên của virus và mục tiêu tác động của thuốc kháng virus

 

PHÂN LOẠI THUỐC KHÁNG VIRUS

Thuốc kháng HIV ( thuốc kháng virus sao chép ngược )

Thuốc ức chế enzyme sao chép ngược loại nucleoside ( nucleoside analog reverse-transcriptase inhibitors - NARTIs hoặc NRTIs )): zidovudine, didanosine, stavudine, zalcitabine, lamivudine...

Thuốc ức chế enzyme sao chép ngược loại non-nucleoside ( non-nucleoside reverse-transcriptase - NNRTIs ) : nevirapine, efavirenz.

Thuốc ức chế enzyme protease ( protease inhibitors – PIs ) : indinavir, ritonavir, nelfinavir, fosamprenavir, lopinavir, saquinavir, atazanavir...

Thuốc kháng virus herpes

Aciclovir và valaciclovir, ganciclovir và valganciclovir, penciclovir và famciclovir,  cidofovir, foscarnet, fomivirsen, trifluridine…

Thuốc kháng virus cúm

Amantadin, rimantadin, oseltamvir, zanamivir...

Thuốc kháng virus khác

Thuốc kháng virus đậu mùa :

Thuốc cổ điển : isatin-beta-thiosemicarbazone, N-methyl-isatin-beta-thiosemicarbazone ( biệt dược : marburan ).

Thuốc mới : HDP-cidofovir ( dạng uống ), cidofovir ( dạng tiêm IV ).

Các cytokin : interferon.

Các thuốc kích thích miễn dịch : cycloferon…

 

CÁC THUỐC

Thuốc kháng virus sao chép ngược ( antiretroviral agents )

Đây là các thuốc chống Human immunodeficiency virus ( HIV ).

Vài nét về HIV

HIV là virus sao chép ngược, thuộc họ Retrovirus, genom là 2 phân tử RNA và có enzyme sao chép ngược ( reverse transcriptase - RT, còn gọi là RNA-dependent DNA polymerase ). HIV tấn công vào các tế bào lympho CD4, đại thực bào, bạch cầu đơn nhân và tế bào thần kinh sợi nhánh ( dendritic cells - DCs ). Nhiễm HIV/AIDS thực sự là một căn bệnh thế kỷ ( AIDS = acquired immunodeficiency syndrome or acquired immune deficiency syndrome ). Hiện nay, Việt Nam đã phát hiện được > 80.000 trường hợp nhiễm HIV, nhưng số nhiễm thực tế có thể lên đến 200.000. Thuốc kháng HIV điều trị nhằm kéo dài cuộc sống của người bệnh. Nghiên cứu vòng đời của HIV trong tế bào chính là tìm mục tiêu tác động của thuốc.

Hình 1. Quá trình phát triển của HIV trong tế bào vật chủ

Virus gắn vào các receptor tế bào CD4.

Hòa màng và thoát vỏ của virus.

Sao chép ngược từ RNA → DNA.

Tích hợp của DNA virus vào DNA vật chủ.

Sao mã muộn hay sự tổng hợp protein của virus.

Lắp ráp hay tổ hợp lại của virus và nẩy chồi;  φ: RNA virus; φ. RNA và reverse transcriptase enzyme.

Giai đoạn 1 : xâm nhập tế bào vật chủ :

HIV gắn vào receptor của tế bào.

Hòa màng và thoát vỏ.

Sao chép ngược RNA thành DNA.

Tích hợp của DNA virus vào DNA của tế bào vật chủ.

Giai đoạn 2 : tế bào phát triển nhân lên :

Tổng hợp protein virus.

Tổng hợp RNA của virus.

Tổ hợp thành virus mới.

Giải phóng các hạt virus mới.

Các cách tác dụng của thuốc kháng virus

Về nguyên tắc lý thuyết các thuốc kháng HIV có thể tác động lên virus thông qua các cơ chế sau :

Ngăn cản virus gắn vào các receptor tế bào (1).

Ngăn cản sự hòa màng và thoát vỏ của virus (2).

Kìm hãm sự sao chép ngược từ RNA (3).

Ngăn cản sự tích hợp của DNA virus vào DNA của tế bào vật chủ (4).

Ngăn cản sự sao mã muộn hay sự tổng hợp protein của virus (5).

Kìm hãm sự lắp ráp hay sự tổ hợp lại của virus và sự nẩy chồi (6).

Ở mỗi giai đoạn trên đều có những cơ chế đặc hiệu và những enzyme đặc hiệu riêng cho HIV, và như vậy có thể tìm ra các thuốc ức chế thích hợp cho từng giai đoạn. Tuy nhiên, do nhiều khó khăn, các nghiên cứu hiện nay phần lớn tập trung vào các loại thuốc ức chế enzyme sao chép ngược RT, protease và integrase.

Enzyme sao chép ngược ( RT ) là enzyme có tác dụng chuyển mạch đơn RNA của HIV thành mạch kép DNA ( giai đoạn 3 trên hình 1 ) trước khi xâm nhập vào nhiễm sắc thể của tế bào vật chủ. Thuốc ức chế RT có 2 loại :

Thuốc ức chế nucleosid reverse-transcriptase ( nucleoside analog reverse-transcriptase inhibitors ( NARTIs hoặc NRTIs )) : tác dụng rất sớm ở giai đoạn sao chép của HIV, ngăn cản nhiễm khuẩn cấp tính của tế bào, rất ít tác dụng trên tế bào đã nhiễm HIV. Các thuốc này đều là “tiền thuốc”, có cấu trúc tương tự như một thành phần cấu tạo của DNA nhưng phải được enzyme ở bào tương của tế bào vật chủ phosphoryl hóa mới trở nên có hoạt tính. Đây là nhóm thuốc quan trọng nhất trong công thức phối hợp thuốc để điều trị HIV.

Thuốc ức chế non-nucleoside reverse-transcriptase ( non-nucleoside reverse- transcriptase inhibitors - NNRTIs ): thuốc ức chế enzyme sao chép ngược không phải nucleoside là thuốc tổng hợp có khả năng gắn vào cạnh vị trí tác động của RT, làm thay đổi hình dáng của vị trí này nên enzyme bị mất hoạt tính. Thuốc không cần qua giai đoạn phosphoryl hóa như NRTIs và chỉ có tác động trên HIV-1. Tất cả đều chuyển hóa ở gan qua Cyt.P450, gây cảm ứng enzyme nên làm tăng chuyển hóa của chính nó ( phải tăng liều khi dùng kéo dài ) và một số thuốc dùng cùng.

Enzyme integrase là enzyme có tác dụng tích hợp DNA của provirus vào nhiễm sắc thể của tế bào vật chủ. Nếu ức chế được enzyme này sẽ làm HIV không nhân lên được trong tế bào ký sinh và sẽ bị tiêu diệt. Thuốc ức chế integrase  ( integrase inhibitors ) hiện đang được tiếp tục nghiên cứu.

Các protease là các enzyme tham gia trong quá trình tổng hợp nhiều protein cấu trúc của lõi virus và các enzyme chủ yếu, trong đó có cả RT và chính bản thân protease. Ức chế protease thì HIV chỉ là các virion ( hạt virus ) không trưởng thành và không gây bệnh được, vì vậy hướng nghiên cứu này rất hấp dẫn. Thuốc ức chế protease ( protease inhibitors ) bao gồm : sanquinavir, indinavir…

Trong vòng đời của HIV, các enzyme tác động như sau :

Các thuốc chống HIV đang được dùng ( bảng 2. ) hiện còn rất đắt và nhiều thuốc còn đang ở giai đoạn thử lâm sàng.

Các thuốc này phần lớn còn đang được nghiên cứu và đánh giá trên lâm sàng. Dưới đây là một số thuốc đại diện, hiện có ở Việt Nam.

Nguyên tắc sử dụng thuốc chống HIV

Sau nhiều năm theo dõi điều trị, WHO đã đưa ra một số khuyến cáo sau :

Các liệu pháp điều trị phải theo hướng dẫn toàn quốc. Liệu pháp hàng đầu có thể là:

Zidovudine ( ZDV ) + lamivudine ( 3TC ) + nevirapine.

ZDV + 3TC + nelfinavir.

ZDV + 3TC + lopinavir ( hoặc indinavir hay saquinavir ).

Sử dụng 2 thuốc không còn được coi là thích hợp.

Sự tuân thủ có ý nghĩa quan trọng hơn sự lựa chọn thuốc.

Phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ cũng phải được điều trị phối hợp thuốc tối ưu.

Bảng 2. Các thuốc chống HIV

Các thuốc

Thuốc ức chế enzyme sao chép ngược loại nucleoside ( nucleoside analog reverse-transcriptase inhibitors ( NARTIs hoặc NRTIs ))

Zidovudine

Tên khác : azidothymidine.

Viết tắt : ZDV.

Chú ý : tên viết tắt AZT đã được dùng để chỉ thuốc azathioprine ( một thuốc ức chế miễn dịch, có mã ATC : L04A X01 ), không dùng cho zidovudine ( mã ATC : J05A F01 ) nữa.

Biệt dược : retrovir, retrovis...

Dược động học

Hấp thu : nhanh qua ống tiêu hóa. Sinh khả dụng đường uống từ 60 – 70 % và có thể bị giảm khi ăn nhiều chất béo. Đạt Cmax. sau khi uống 0,5 - 1,5 h.

Phân phối : gắn 34 – 38 % với protein huyết tương. Phân bố vào mọi mô, nồng độ trong dịch não tuỷ bằng 60 % trong huyết tương.

Chuyển hóa : chủ yếu ở gan bằng phản ứng liên hợp với glucuronic acid.

Thải trừ : chủ yếu qua thận ( » 90 % ). t1/2 » 1,1 ± 0,2 h, nhưng dạng hoạt tính trong tế bào có t1/2 » 3 h.

Tác dụng dược lý

Zidovudine là chất tổng hợp, dẫn xuất của thymidine, lúc đầu để chống ung thư nhưng không hiệu quả ( Horwitz, Michigan Cancer Foundation, 1964 ), sau thấy có tác dụng chống virus ( Ostertag, 1974 ) và đến 1985 thì Mitsuya lần đầu tiên thấy có tác dụng ức chế được HIV-1 in vitro. Thuốc có tác dụng ức chế in vitro sự sao chép của các Retrovirus, đặc biệt là virus gây suy giảm miễn dịch ở người ( HIV ). In vitro, zidovudine chống được HIV-1, HIV-2 và các virus hướng lympho T của người ( Human T-cell lymphotropic virus – HTLV, còn gọi là Adult T-cell lymphoma virus ). Sự ức chế cạnh tranh RT của HIV mạnh hơn gấp 100 lần so với sự ức chế DNA polymerase của tế bào vật chủ.

Cơ chế tác dụng

Sau khi nhập vào tế bào, zidovudine cũng phải được phosphoryl hóa 3 lần. Thuốc được chuyển thành zidovudine monophosphate bởi thymidine kinase của tế bào, cuối cùng thành zidovudine 5-triphosphate ( có hoạt tính ) nhờ một số enzyme khác của tế bào. Trong tế bào, dạng hoạt tính có t1/2 » 3 h. Zidovudine 5-triphosphate ức chế cạnh tranh với deoxythymidine triphosphate ( dTTP ) của enzyme RT. dTTP là 1 trong 5 loại nucleoside triphosphates được sử dụng trong quá trình tổng hợp DNA của virus in vivo. Ngoài ra zidovudine 5-triphosphate còn tranh chấp với thymidine triphosphate ( TTP ) để tích hợp vào DNA provirus, làm kết thúc sớm chuỗi DNA, tạo ra DNA provirus không hoàn chỉnh.

Chỉ định

Nhiễm HIV/AIDS có số lượng tế bào CD4 ( CD = cluster of differentiation hoặc cluster of designation ) ≤ 500/mm3 ( bình thường : 500 – 1.600/mm3 ).

Người bệnh có triệu chứng liên quan đến HIV hoặc những người tuy không có triệu chứng nhưng có các chỉ số xét nghiệm bất thường cho thấy có suy giảm miễn dịch do HIV.

Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang thai.

Zidovudine không phải là thuốc chữa khỏi được nhiễm HIV, người bệnh vẫn có thể mắc các bệnh liên quan đến nhiễm HIV. Do đó cần phải thông báo cho người bệnh để khi tình hình sức khỏe thay đổi thì phải đến ngay cơ sở y tế để được chăm sóc và điều trị.

Chống chỉ định

Người có lượng bạch cầu trung tính < 0,75×109/l, hoặc có lượng hemoglobin < 75 g/l.

Suy gan và / hoặc suy thận nặng.

Quá mẫn cảm với thuốc.

Thận trọng ( cần giảm liều hoặc điều trị ngắt quãng )

Rối loạn chức năng gan và / hoặc thận.

Mắc bệnh về máu : giảm bạch cầu hạt ( bạch cầu trung tính < 1×109/l ), giảm tiểu cầu, thiếu máu nặng… ( cần phải truyền máu ).

Mắc bệnh cơ.

Người cao tuổi vì chức năng gan, thận giảm.

Phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú :

Thời kỳ mang thai : độ an toàn của việc dùng zidovudine cho người mẹ và thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ chưa được xác định. Tuy nhiên, do nguy cơ lây truyền dọc HIV ( từ mẹ sang con ) rất cao nên cần phải điều trị cho người mang thai có HIV(+).

Thời kỳ cho con bú : phụ nữ bị nhiễm HIV không nên cho con bú để tránh lây truyền cho trẻ lúc đó có thể chưa bị nhiễm.

Tác dụng không mong muốn

Giai đoạn sớm ( thường xảy ra trong 1 tháng đầu ) :

Rối loạn tiêu hóa : chán ăn, khó tiêu, buồn nôn, nôn, tiêu chảy...

Trên máu : thiếu máu hồng cầu khổng lồ, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu. Nếu nặng gây suy tủy toàn bộ. Thường gặp giảm bạch cầu trung tính và thiếu máu khi dùng thuốc liều cao ( 1.200 – 1.500 mg/24 h ) và trong số những người bệnh đã có tiền sử giảm bạch cầu trung tính hoặc thiếu máu, đặc biệt ở người suy tủy và có số lượng tế bào CD4 < 100/mm3. Ở người nhiễm HIV nặng, nguy cơ độc với máu từ 25 – 30 %. Nên kiểm tra huyết học 2 tuần một lần, trong vòng 3 tháng đầu điều trị và sau đó mỗi tháng một lần.

Gan : viêm gan ứ mật, thoái hóa mỡ...

Thần kinh – tâm thần : mệt mỏi, đau đầu nặng, mất ngủ, khó chịu, chóng mặt, hội chứng hưng cảm, co giật, rối loạn tâm thần, lú lẫn, sốt, run, đau cơ, bệnh khớp, hội chứng viêm đa cơ, có thể gây liệt...

Dị ứng : nổi ban, nhiễm sắc tố móng, rụng lông tóc, hoại tử biểu bì...

Giai đoạn muộn ( 6 - 17 tháng ): tụ sắc tố ở các móng, cơn co giật, hội chứng giống viêm đa cơ... Tỷ lệ TDKMM và mức độ trầm trọng sẽ lớn hơn khi bệnh AIDS đang tiến triển hoặc được điều trị muộn. 

Cần thông báo cho người bệnh biết dùng thuốc không theo đơn hoặc tự điều trị cũng có thể làm tăng nguy cơ độc tính.

Tương tác thuốc

Chế phẩm và liều lượng

Chế phẩm : viên 100 - 250 – 300 mg; siro chứa 50 mg/5 ml; lọ dung dịch tiêm truyền 200 mg/20 ml.

Các phác đồ và liều lượng cụ thể sẽ giới thiệu trong lâm sàng. Có thể phối hợp với thuốc ức chế RT khác hoặc thuốc ức chế protease.

Didanosine

Tên khác : 2',3'-dideoxyinosine, ddI, DDI.

Biệt dược : videx, videx EC ( EC = enteric coated ( delayed release ))...

Dược động học

Hấp thu : didanosine bị phá huỷ nhanh ở môi trường acid, vì vậy mọi chế phẩm uống đều chứa chất trung hòa pH của dịch vị. Cần uống lúc đói, trước bữa ăn 1 h. Nhai nát viên thuốc hoặc hòa vào nước cho thật tan rồi uống ngay. Nếu uống sau bữa ăn, làm giảm hấp thu tới 50 %. Các viên nén pha hỗn dịch uống didanosine phải được dùng ít nhất 30 ph trước bữa ăn.

Phân phối : nhanh vào các mô. Nồng độ trong dịch não tuỷ bằng 20 - 46 % nồng độ trong huyết tương.

Chuyển hóa : chủ yếu ở gan.

Thải trừ : chủ yếu qua thận ( 59 % ). t1/2 = 0,6 - 1,5 h, nhưng t1/2 của dideoxyadenosine triphosphate ( ddATP ) là 8 - 24 h nên chỉ cần uống 2 lần/24 h.

Tác dụng dược l‎ý 

Didanosine là chất tương tự nucleoside purine, được nghiên cứu từ 1989 và dùng điều trị từ cuối năm 1991. Tác dụng cả trên HIV-1 và HIV-2.

Hình 3. Công thức cấu tạo của didanosine

Cơ chế tác dụng

Thuốc ức chế HIV do ức chế enzyme sao chép ngược ( RT ) của virus. Sau khi thâm nhập vào tế bào, dưới tác dụng của enzyme chuyển hóa nội bào, didanosine được 3 lần phosphoryl hóa để thành dạng có hoạt tính là ddATP, ức chế cạnh tranh ( tranh chấp ) với deoxyadenosine triphosphate ( dATP ) ức chế RT của virus, đồng thời ngăn cản kéo dài chuỗi DNA, ngăn cản tổng hợp DNA của provirus.

Chỉ định

Như của zidovudine.

Dùng cho trẻ em > 6 tháng tuổi và người lớn bị nhiễm HIV không dung nạp với ZDV, hoặc dùng ZDV hơn 4 tháng nhưng bệnh ít thuyên giảm.

Chống chỉ định

Suy gan và / hoặc suy thận nặng.

Quá mẫn cảm với thuốc...

Thận trọng

Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú. Người mẹ có HIV(+) đang dùng thuốc không nên cho con bú.

Có tiền sử viêm tụy, tiền sử mắc bệnh gan, thận, bệnh thần kinh ngoại vi          ( peripheral neuropathy ), bệnh phenylketon niệu ( Phenylketonuria – PKU ), urea máu cao...

Tác dụng không mong muốn

Rối loạn tiêu hóa : buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy...

Máu : giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, thiếu máu...

Viêm tụy : thường gặp nhất, liên quan đến liều dùng, nhất là khi dùng liều > 12,5 mg/kg. Tỷ lệ thường gặp là 6 - 28 %.

Bệnh thần kinh ngoại vi : bệnh nhân dùng thuốc có thể bị bệnh thần kinh ngoại biên nhiễm độc ở các chi, đặc trưng bởi việc tê đầu chi, hai bên, đối xứng, cảm giác kiến bò, đau bàn chân, và ít gặp hơn là đau bàn tay... ( cần ngừng thuốc cho tới khi hết triệu chứng ). Tỷ lệ thường gặp là 6 - 28 %.

Rối loạn chuyển hóa : tăng acid uric máu, nhiễm toan chuyển hoá ( nhiễm lactic acid ), tăng glucose máu...

Độc với gan : gây viêm gan, gan nhiễm mỡ, suy gan không rõ căn nguyên, tăng transaminase máu...

Trên mắt : viêm thần kinh thị giác hoặc võng mạc, đặc biệt khi dùng liều cao kéo dài.

Dị ứng ngoài da.

Các rối loạn khác : sốt, rét run, nhức đầu, đau cơ, bội nhiễm...

Tương tác thuốc

Chế phẩm và liều lượng

Viên 25 - 50 - 100 - 150 mg; bột pha nhũ dịch uống dùng cho trẻ em : 100 - 200 mg.

Liều dùng :

Người lớn : trọng lượng > 60 kg : uống 200 mg x 2 lần/ngày; trọng lượng < 60 kg : uống 125 mg x 2 lần/24 h.

Trẻ em : uống 120 mg/m2 x 2 lần/24 h.

Các phác đồ cụ thể sẽ giới thiệu trong lâm sàng. Có thể phối hợp với thuốc ức chế RT khác hoặc thuốc ức chế protease. Phải uống lúc đói, trước bữa ăn 1 h hoặc 2 h sau khi ăn. Nên nhai thật kỹ hoặc hòa tan với nước trước khi uống. Để hòa tan thuốc, cho 2 viên vào 30 ml nước, khuấy đến khi thuốc phân tán hoàn toàn ( sau khoảng 2 - 3 ph ) và uống ngay sau khi pha. Vì có thể có nguy cơ thoái hóa của didanosine, không pha thuốc với nước trái cây ( trừ nước táo ), nước có gas hoặc bất kỳ loại nước uống có acid nào.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top