Vắc xin tả

Nội dung

Tên chung quốc tế: Vaccinum cholerae inactivatum.

Mã ATC: J07A E01.

Loại thuốc: Thuốc tạo miễn dịch chủ động (vắc xin).

Dạng thuốc và hàm lượng

Dạng uống:

Vắc xin WC/rBS gồm có toàn bộ vi khuẩn V. cholerae O1 bị diệt cùng với đơn vị phụ B của độc tố vi khuẩn tả tái tổ hợp (rBS). Vắc xin này được Công ty SBL của Thụy Điển sản xuất (Dukoral) và ở Việt Nam do Công ty văcxin và sinh phẩm số 1 sản xuất.

Vắc xin tả uống của Việt Nam được mô phỏng một phần dựa trên vắc xin của Thụy Điển gồm có toàn bộ vi khuẩn V. cholerae O1 và O139 bị diệt nhưng không có đơn vị phụ B của độc tố vi khuẩn tả tái tổ hợp (rBS).

Vắc xin CVD 103-HgR (Biệt dược Orochol): Vắc xin uống gồm có chủng V. cholera O1 bị biến đổi gen (CVD 103-HgR) sống nhưng giảm độc lực do Hãng Bema Biotek (Thụy Sỹ) sản xuất.

Dạng tiêm:

Thuốc tiêm dạng hỗn dịch.

Vắc xin phòng bệnh tả là một hỗn dịch chứa vi khuẩn tả Vibrio cholerae bất hoạt trong dung dịch đệm natri clorid dùng để tiêm. Vắc xin chứa những phần bằng nhau các chủng Ogawa và Inaba của vi khuẩn tả Vibrio cholerae nhóm 01 được tách chiết từ môi trường nuôi cấy có dung dịch đệm là natri clorid và làm bất hoạt vi khuẩn bằng phenol. Vắc xin phòng tả chứa 8 đơn vị của mỗi chủng vi khuẩn V. cholerae (4 tỷ tế bào) trong 1 ml.

Các thành phần khác: Vắc xin có chứa một chất kháng khuẩn thích hợp và chất bảo quản là phenol.

 

Dược lý và cơ chế tác dụng

Vắc xin tả được dùng để thúc đẩy quá trình miễn dịch chủ động đối với bệnh tả ở người có nguy cơ cao tiếp xúc với bệnh này. Vi khuẩn tả V. cholerae bất hoạt có trong vắc xin thúc đẩy sản sinh kháng thể diệt khuẩn và nếu vắc xin có rBS thì sẽ tạo kháng thể chống độc tố vi khuẩn tả. Các kháng thể kháng khuẩn ở ruột ngăn các vi khuẩn bám dính vào thành ruột, như vậy làm vi khuẩn V. cholerae O1 không tụ tập được. Các kháng thể kháng độc ở ruột ngăn chặn độc tố vi khuẩn bám vào niêm mạc ruột, như vậy tránh được ỉa chảy do độc tố vi khuẩn tả gây ra. Độc tố không chịu nhiệt (LT) của E. coli gây nhiễm độc ruột (ETC) tương tự với độc tố vi khuẩn tả về mặt cấu trúc, chức năng và miễn dịch học. Về miễn dịch học, có phản ứng chéo giữa 2 độc tố đó.

Hiệu quả phòng bệnh tả:

Dạng uống: Vắc xin WC/rBS (Biệt dược Dukoral) uống 2 liều cách nhau từ 1 đến 6 tuần cho trẻ từ 2 tuổi trở lên. Thuốc đã được thử nghiệm ở Bangladesh, Peru, đã cho hiệu quả bảo vệ cho người uống phòng tới 85% trong 6 tháng đầu theo dõi.

Thời gian bảo vệ của vắc xin thay đổi tùy theo tuổi và kéo dài 6 tháng ở trẻ em và 2 năm ở người lớn. Hiệu quả bảo vệ giảm nhanh sau 6 tháng ở trẻ nhỏ nhưng vẫn còn khoảng 60% ở trẻ lớn và người lớn sau 2 năm. Thử nghiệm lâm sàng cho thấy thuốc dùng an toàn.

Vắc xin tả uống sản xuất tại Việt Nam chứa toàn tế bào vi khuẩn tả V. cholera O1 và O139 bị diệt, nhưng không có đơn vị phụ B của độc tố vi khuẩn tả (rBS).

Công ty văcxin và sinh phẩm số 1 cùng với Viện vắc xin quốc tế (IVI) đã sản xuất theo công thức mới dựa trên nồng độ kháng nguyên đặc hiệu (LPS). Hiệu quả bảo vệ tương tư như vắc xin WC/rBS nhưng có ưu điểm dùng được cho cả trẻ nhỏ từ 1 năm tuổi và giá thành rẻ hơn nhiều so với các vắc xin khác.

Vắc xin CVD 103-HgR: Vắc xin sống giảm độc lực uống một liều duy nhất (Biệt dược Orokol) do Bema Biotek (Thụy Sỹ) sản xuất. Thuốc đã được thử nghiệm trên người lớn tình nguyện uống 1 liều duy nhất ở Mỹ cho thấy hiệu quả bảo vệ cao (95%) chống lại V. cholerae cổ điển và 65% bảo vệ chống được V. cholerae El Tor 3 tháng sau khi uống phòng. Một thử nghiệm rộng lớn ở Indonesia không chứng minh một cách thuyết phục hiệu quả bảo vệ cho quần thể phơi nhiễm lâu với bệnh tả sau khi uống phòng. Tuy vậy, một phân tích hậu cứu trong một chiến dịch uống phòng trong cộng đồng do Chính phủ Indonesia thực hiện đã chứng tỏ có hiệu quả bảo vệ khi vắc xin được dùng để kiểm soát dịch đang bùng nổ trong điều kiện của thực địa kèm theo các biện pháp kiểm soát thông thường.

Hiệu quả bảo vệ xuất hiện 8 ngày sau khi uống 1 liều duy nhất, cho nên có thể uống 1 liều khi dịch bắt đầu bùng nổ.

Dạng tiêm: Hiện nay ít dùng vì hiệu quả bảo vệ thấp và có nhiều tác dụng phụ.

Chỉ định

Vắc xin tả được dùng để thúc đẩy quá trình miễn dịch chủ động đối với bệnh tả cho những người sinh sống và làm việc trong vùng tả lưu hành có điều kiện vệ sinh kém, cho nhân viên y tế hoặc xét nghiệm viên thường xuyên tiếp xúc với người bệnh hoặc đang vận hành xử lý vi khuẩn V. cholerae.

Vắc xin tả còn được dùng để thúc đẩy quá trình miễn dịch chủ động đối với bệnh tả cho những người đi du lịch tới những vùng có bệnh tả đang lưu hành hay thành dịch, và điều kiện để nhập cảnh đòi hỏi phải có chứng chỉ tiêm chủng quốc tế phòng tả.

Có thể chỉ định dùng vắc xin uống hiệu lực cao cho những trường hợp khẩn cấp như vùng xảy ra lũ lụt, thiên tai, ô nhiễm môi trường, nguồn nước. Uống 2 liều cách nhau 2 tuần, đến tuần thứ 3 mới bắt đầu sinh kháng thể.

 

Chống chỉ định

Mẫn cảm với hoạt chất hoặc với 1 thành phần nào của vắc xin.

Hoãn uống hoặc tiêm khi có ỉa chảy cấp hoặc sốt.

 

Thận trọng

Đối với vắc xin WC/rBS (Dukoral), còn ít dữ liệu về tính dung nạp và tính sinh miễn dịch đối với trẻ nhỏ từ 1 đến 2 tuổi và hiệu quả bảo vệ ở lứa tuổi này chưa được nghiên cứu. Nên không khuyến cáo dùng vắc xin loại này cho lứa tuổi 1 - 2 tuổi. Thông tin về tác dụng phòng bệnh của vắc xin WC/rBS cũng còn ít đối với người 65 tuổi trở lên.

Chưa có số liệu lâm sàng về hiệu quả bảo vệ của Dukoral chống lại bệnh tả sau khi uống liều nhắc lại (liều tăng cường).

Dukoral bảo vệ đặc hiệu chống lại V. cholerae nhóm huyết thanh O1 nhưng không bảo vệ chống được V. cholerae nhóm huyết thanh O139 hoặc các chủng vibrion khác.

Các dữ liệu về tính dung nạp và tính sinh miễn dịch của vắc xin đối với người nhiễm HIV còn ít.

Tất cả các loại vắc xin hiện có không thể thay thế được các biện pháp bảo vệ thông thường.

 

Thời kỳ mang thai

Hiện không có các dữ liệu riêng của vắc xin tả dùng cho người đang mang thai. Cũng như các loại vắc xin vi khuẩn bất hoạt khác, nói chung vắc xin tả không chống chỉ định trong khi mang thai, trừ khi cá nhân đó đã từng bị phản ứng toàn thân hoặc dị ứng sau liều tiêm vắc xin tả trước đây; tuy nhiên, vắc xin chỉ nên dùng cho người mang thai khi thật sự cần thiết.

 

Thời kỳ cho con bú

Còn chưa rõ vắc xin tả có phân bố vào sữa mẹ hay không và vắc xin tả truyền sang trẻ đang bú mẹ có gây ra rủi ro bất thường nào không. Mặc dù chưa có dữ liệu chuyên biệt về vấn đề này nhưng nuôi con bằng sữa mẹ không được xem là chống chỉ định đối với các loại vắc xin bất hoạt, bởi vì các vi khuẩn bất hoạt có trong các vắc xin này không thể nhân lên được trong cơ thể và do đó không đặt ra bất cứ một vấn đề nào cho người mẹ và đứa con đang bú.

 

Tác dụng không mong muốn (ADR)

Gây miễn dịch cơ bản bằng tiêm vắc xin tả chỉ có tác dụng bảo vệ vừa phải và ngắn hạn. Các vắc xin tả uống cho kết quả hứa hẹn hơn cả. Các kết quả thể hiện có cải thiện rõ rệt so với các kết quả thu được trước đây đối với loại vắc xin tiêm.

Vắc xin tả tiêm hiện vẫn còn được dùng trên thế giới, nhưng không được khuyến cáo. Vắc xin này là hỗn dịch gồm các chủng Inaba và Ogawa của phẩy khuẩn tả Vibrio cholerae, Serovar 01 đã bị giết chết bằng nhiệt và bảo quản bằng phenol.

Các số liệu thu thập được cho thấy tần suất của các tác dụng không mong muốn (đau tại nơi tiêm, buồn nôn, tiêu chảy) là thấp. Khoảng 1% số người tiêm vắc xin bị tổn thương ngoài da nhẹ, như đau nhất thời tại nơi tiêm trong vòng 5 - 7 ngày sau khi tiêm, với các biểu hiện ban đỏ, sưng đau, cứng và rất ít khi gây loét. Các phản ứng thường hơn là các phản ứng dị ứng như sốt nhẹ, đau đầu và khó chịu.

Các biến chứng nghiêm trọng liên quan đến tiêm phòng tả (hoặc phối hợp) rất hiếm gặp, và mối quan hệ nhân quả luôn luôn đáng ngờ, song khi biến chứng xảy ra thì chống chỉ định cho các lần tiêm vắc xin tả sau đó.

Vắc xin uống WC/rBS:

Ít gặp, 1/1000 < ADR < 1/100

Ỉa chảy, đau bụng, co thắt cơ bụng, sôi bụng, đầy bụng và nhức đầu.

Hiếm gặp, 1/10 000 < ADR < 1/1000

Sốt, khó chịu, buồn nôn, nôn, chán ăn, biểu hiện hô hấp như viêm mũi, ho và chóng mặt.

Rất hiếm gặp, ADR < 1/10 000

Mệt mỏi, buồn ngủ, đầy bụng, rét run, đau khớp, đau họng, mất vị giác, ra mồ hôi, cơ thể mất nước, bất tỉnh và phát ban ở da.

 

Liều lượng và cách dùng

Dạng uống:

Vắc xin WC/rBS (Dukoral), trước khi uống, dung dịch treo vắc xin phải hòa vào dung dịch natri bicarbonat dưới dạng hạt sủi phải hòa tan trong khoảng 150 ml nước mát và uống trong vòng 2 giờ sau khi pha. Phải tránh uống hoặc ăn hoặc uống thuốc 1 giờ trước và 1 giờ sau khi uống vắc xin.

Uống phòng lần đầu: Người lớn và trẻ em từ 6 tuổi trở lên, uống 2 liều cách nhau ít nhất 1 tuần, nếu quá 6 tuần phải uống lại từ đầu. Trẻ em từ 2 đến 6 tuổi:

uống 3 liều, cách nhau như trên. Uống phòng phải hoàn thành ít nhất 1 tuần trước khi phơi nhiễm với vi khuẩn tả.

Liều lặp lại (liều tăng cường): Người lớn và trẻ em từ 6 tuổi trở lên: uống 1 liều sau 2 năm. Trẻ em từ 2 - 6 tuổi, uống 1 liều sau 6 tháng. Chưa có số liệu về hiệu quả lâm sàng khi uống liều tăng cường. Nếu thời gian uống phòng quá 2 năm kể từ lần uống cuối cùng, phải uống lại từ đầu.

Vắc xin phòng tả mới của Việt Nam: Người lớn và trẻ nhỏ từ 1 tuổi trở lên, uống 2 liều cách nhau 1 tuần.

Vắc xin CVD 103-HgR uống 1 liều duy nhất, chủ yếu dùng cho du khách đi vào vùng có bệnh tả lưu hành hay có dịch.

Dạng tiêm:

Hiện nay hầu như không dùng. Tổ chức y tế thế giới cũng không khuyến cáo dùng.

Vắc xin tả tiêm thường tiêm bắp hoặc dưới da. Không được tiêm bắp cho những người bị giảm tiểu cầu hoặc có bất cứ một rối loạn đông máu nào có chống chỉ định tiêm bắp. Không được tiêm tĩnh mạch vắc xin tả.

Trước khi rút dung dịch vắc xin ra khỏi lọ phải lắc lọ thật kỹ. Nút cao su lọ vắc xin và vùng da tiêm cần sát khuẩn bằng các dung dịch sát khuẩn thích hợp.

Đối với người lớn và trẻ từ 3 tuổi trở lên, vị trí tiêm thích hợp nhất là tiêm bắp hoặc tiêm dưới da vào vùng cơ delta của cánh tay. Với trẻ dưới 3 tuổi nên tiêm bắp hoặc dưới da, nơi tiêm thích hợp nhất tương ứng với phần trên hoặc mặt ngoài đùi. Ở những trẻ từ 5 tuổi trở lên, tiêm vắc xin dưới da tốt hơn cả là ở mặt trong cẳng tay.

Không được tiêm vắc xin tả vào mạch máu hoặc vùng gần các mạch máu.

Để tạo miễn dịch cơ bản bằng vắc xin tả cần thực hiện 2 liều tiêm cách nhau từ 1 tuần đến 1 tháng hoặc hơn. Khi tiêm bắp hay dưới da vắc xin tả, liều thường dùng cho người lớn và trẻ trên 10 tuổi là 0,5 ml, cho trẻ từ 5 - 10 tuổi là 0,3 ml, và cho trẻ từ 6 tháng đến 4 tuổi là 0,2 ml.

Các liều củng cố nên tiêm 6 tháng một lần nếu tiếp tục có nguy cơ tiếp xúc bệnh tả. Tại những vùng bệnh tả xảy ra theo mùa kéo dài 2 - 3 tháng, sẽ có kết quả bảo vệ tối ưu nếu tiêm liều củng cố vào đầu mùa dịch bệnh.

 

Tương tác thuốc

Với vắc xin sốt vàng:

Dùng đồng thời 2 loại vắc xin tả dạng tiêm và vắc xin sốt vàng có ảnh hưởng tới việc đáp ứng miễn dịch của mỗi loại vắc xin. Mặc dù các hàm lượng kháng thể trong huyết thanh giảm vào thời gian đầu khi dùng đồng thời cả 2 loại vắc xin trong vòng 3 tuần, so với tiêm vắc xin cách nhau trên 3 tuần, nhưng các tỷ lệ chuyển đổi trong huyết thanh không bị ảnh hưởng và tầm quan trọng về lâm sàng của tác dụng này còn chưa rõ. Vắc xin dạng uống không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch của vắc xin phòng bệnh sốt vàng

Với các loại vắc xin khác:

Nói chung có thể tiêm tại các vị trí khác nhau vắc xin tả và các loại vắc xin khác đồng thời (tức là trong cùng một ngày) hay vào bất cứ thời điểm nào trước hoặc sau một loại vắc xin bất hoạt khác mà không làm giảm đáp ứng miễn dịch đối với vắc xin ấy.

Cần tránh uống thuốc, kể cả các loại vắc xin uống khác, 1 giờ trước và 1 giờ sau khi uống vắc xin tả.

 

Độ ổn định và bảo quản

Bảo quản ở nhiệt độ 2 - 8°C. Tránh ánh sáng. Không làm đông băng vắc xin.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top