Khi trẻ mới sinh ra, trẻ sẽ được tiêm những mũi vaccine đầu tiên. Lý tưởng nhất, ngay trước tuổi bắt đầu đi học mẫu giáo, trẻ đã được tiêm:
Tuy nhiên, còn có nhiều loại vaccine quan trọng khác bạn cũng nên cân nhắc tiêm cho trẻ, cũng như tiêm cho chính bản thân mình.
Tốt nhất, nên tiêm vaccine thủy đậu càng sớm càng tốt, bởi càng lớn tuổi, thì hậu quả do bệnh thủy đậu để lại càng nặng nề. Và do vậy, tiêm phòng thủy đậu là cách an toàn hơn để phòng bệnh. Với một số trẻ, mắc thủy đậu có thể không gây ra quá nhiều vấn đề, nhưng với một số trẻ khác, mắc thủy đậu có thể sẽ để lại một số biến chứng, ví dụ như nhiễm vi khuẩn và viêm phổi.
Tất cả những trẻ từ trên 12 tháng đến 18 tuổi nên được tiêm phòng 2 mũi vaccine thủy đậu, mũi đầu tiên nên tiêm trong khoảng từ 12-15 tháng, và mũi thứ 2 nên tiêm khi từ 4-6 tuổi.
Các nghiên cứu chứng minh rằng, vaccine thủy đậu an toàn với đa số mọi người. Các phản ứng phụ thường rất nhẹ, và có thể bao gồm:
Các phản ứng phụ nghiêm trọng hơn thường ít gặp, nhưng có thể bao gồm”
Rota virus là một loại virus rất dễ lây lan và có thể dẫn đến tiêu chảy nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Rota virus thường gây nôn mửa và sốt. Nếu không được điều trị, có thể dẫn đến mất nước nặng và thậm chí tử vong.
Mỗi năm, hơn 500.000 trẻ em trên toàn thế giới tử vong vì bệnh tiêu chảy, và khoảng một phần ba số ca tử vong này do rota virus gây ra. Hàng triệu trẻ em phải nhập viện mỗi năm vì bị nhiễm rota virus.
Trẻ nhỏ nên được tiêm vaccine rota virus để phòng nhiễm bệnh. Hiện tại, ở Việt Nam, có 3 loại vaccine phòng Rota virus là Rotavin-M1, Rotateq, và Rotarix. Những loại vaccine này có thể tiêm từ 2-3 mũi, tùy từng loại. Mũi đầu tiên nên tiêm trước khi trẻ được 15 tuần và mũi cuối cùng nên tiêm khi trẻ được 32 tuần (8 tháng).
Một số trẻ không nên tiêm vaccine phòng rota virus. Những trẻ bị dị ứng với vaccine, những trẻ bị suy giảm miễn dịch nặng kết hợp hoặc mắc phải các bệnh suy giảm miễn dịch khác, trẻ bị tắc ruột (lổng ruột) không nên tiêm loại vaccine này.
Giống như nhiều loại vaccine khác, vaccine rota virus cũng sẽ có một vài phản ứng phụ, nhưng những phản ứng này thường nhẹ và sẽ tự khỏi, bao gồm: tiêu chảy tạm thời hoặc nôn mửa, sốt, chán ăn, kích thích. Những phản ứng nghiêm trọng hơn đã được báo cáo lại, nhưng rất hiếm gặp, bao gồm lồng ruột và phản ứng dị ứng.
Viêm gan A là một bệnh gan cấp tính gây ra bởi virus viêm gan A. Triệu chứng có thể kéo dài từ vài tuần cho đến vài tháng. Mặc dù viêm gan A thường không phát triển thành bệnh mãn tính, nhưng trong một số trường hợp, các triệu chứng có thể trở nên nghiêm trọng hơn và kéo dài tới vài tháng. Triệu chứng bao gồm mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn và vàng da.
Tất cả trẻ em nên được tiêm vaccine phòng viêm gan A khi từ 1-2 tuổi. Vaccine viêm gan A sẽ được tiêm 2 mũi, cách nhau 6-18 tháng.
Vaccine viêm gan A đôi khi cũng được khuyến cáo nên tiêm cho người lớn. Đi du lịch đến một số quốc gia sẽ khiến bạn có nguy cơ nhiễm viêm gan A cao hơn. Một số đối tượng đặc biệt cũng sẽ có nguy cơ nhiễm viêm gan A cao hơn, ví dụ như nam giới quan hệ tình dục đồng giới, tiêm chích hoặc những người bị bệnh gan mãn tính.
Vaccine viêm gan A là tương đối an toàn, các phản ứng phụ nhẹ có thể xảy ra bao gồm: sưng tại chỗ tiêm, đau đầu, chán ăn, mệt mỏi. Những phản ứng phụ hiếm gặp hơn bao gồm khó thở, hội chứng Guillain-Barré, giảm tiểu cầu.
Bệnh viêm màng não là một bệnh nhiễm khuẩn nghiêm trọng và có thể gây nhiễm khuẩn huyết. Trẻ bị viêm màng não thường do sống gần với những trẻ khác bị bệnh, dùng chung bát đũa, hôn hoặc hít phải khói thuốc từ người bệnh.
Trẻ từ 11 -12 tuổi cho đến 16 tuổi nên được tiêm 2 mũi vaccine phòng viêm màng não. Sinh viên sống trong ký túc xá cũng nên được tiêm phòng loại vaccine này.
Vaccine phòng viêm màng não tương đối an toàn. Các phản ứng phụ nhẹ thường bao gồm: đỏ, đau tại chỗ tiêm, đau đầu, mệt mỏi, sưng. Một phản ứng phụ hiếm gặp nhưng rất nghiêm trọng là hội chứng Guillance Barre – một rối loạn có thể khiến hệ miễn dịch tấn công các tế bào thần kinh.
HPV là một loại virus phổ biến lây truyền qua đường tình dục. Theo CDC, khoảng 80 triệu người Mỹ bị nhiễm virus HPV tại Mỹ, với tỷ lệ mới mắc mỗi năm khoảng 14 triệu người.
Một số chủng HPV không dẫn đến các biến chứng, nhưng một số chủng khác có thể gây ra các biến chứng, ví dụ như: ung thư cổ tử cung, ung thư âm đạo, ung thư âm vật ở phụ nữ, ung thư dương vật ở nam, ung thư hậu môn, ung thư vòm họng và ung thư vùng sinh dục ở cả nam và nữ
Trẻ từ 11-12 tuổi trở lên nên được tiêm phòng vaccine HPV. Với những người chưa được tiêm phòng khi còn nhỏ, thì vaccine HPV được khuyến nghị nên tiêm cho nữ giới từ 13-26 tuổi và nam giới từ 13-21 tuổi.
Vaccine HPV thường được coi là an toàn. Các phản ứng phụ nhẹ có thể xảy ra bao gồm: đau, đỏ, sưng tại vết tiêm, buồn nôn, choáng ngất, chóng mặt, đau đầu. Các phản ứng phụ nặng nhưng hiếm gặp bao gồm: hội chứng Guillain Barre, cục máu đông, liệt cơ.
Đây là loại vaccine phối hợp, có thể bảo vệ người lớn và trẻ em khỏi 3 bệnh thường gặp, đó là bạch hầu, uốn ván, ho gà. Vaccine phối hợp bạch hầu, uốn ván, ho gà có thể bắt đầu tiêm khi trẻ từ 2 tháng tuổi. Những trẻ chưa được tiêm loại vaccine này khi 2 tháng tuổi nên được tiêm càng sớm càng tốt. Nhân viên y tế hoặc bất cứ ai thường xuyên phải tiếp xúc với trẻ sơ sinh cũng nên tiêm phòng loại vaccine này.
Vaccine bạch hầu, uốn ván, ho gà an toàn với hầu hết mọi người. Các phản ứng phụ nhẹ có thể bao gồm: đau và đỏ tại chỗ tiêm, sốt nhẹ, đau đầu, mệt mỏi, đau người. Những phản ứng phụ nghiêm trọng nhưng hiếm gặp hơn có thể bao gồm: phản ứng dị ứng nặng, sốt cao.
Những loại vaccine trên đây sẽ tạo ra sự khác biệt rất lớn về khả năng nhiễm bệnh. Vaccine là thành công của nền y tế công cộng và đã giúp rất nhiều người tránh khỏi nhiều loại bệnh nguy hiểm, thậm chí là tránh dược tử vong.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh