Để chẩn đoán trẻ có bị chậm phát triển hay không, Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia (NCHS) đã nghiên cứu và đưa ra những tiêu chí cụ thể sau:
Trường hợp trẻ bị chậm phát triển:
Trường hợp trẻ có tốc độ tăng trưởng giảm dần:
Cân nặng giảm nhiều hơn 2 bách phân vị chính hoặc 2 độ lệch chuẩn trong khoảng thời gian từ 3 đến 6 tháng dựa theo bảng xếp hạng tăng trưởng của NCHS.
Hậu quả của bệnh chậm phát triển ở trẻ em
Trẻ chậm phát triển không nạp đủ cũng như không được cung cấp hay hấp thu đủ lượng calo cần thiết để đáp ứng những nhu cầu dinh dưỡng thiết yếu.
Thông thường, bệnh chậm phát triển được phân loại thành chậm phát triển thể chất và chậm phát triển tinh thần. Chậm phát triển tinh thần liên quan đến các đặc điểm tâm lý xã hội theo tự nhiên, bao gồm rối loạn gắn kết giữa mẹ và con, rối loạn các kỹ thuật cho ăn, tính tương tác khi cho ăn kém và nuôi con bằng sữa mẹ không đúng cách.
- Những yếu tố nguy cơ dẫn đến chậm phát triển tinh thần đó là rối loạn gắn kết giữa mẹ và con, dùng loại sữa không thích hợp, nuôi con bằng sữa mẹ không đúng cách, sử dụng quá nhiều nước ép, đặc biệt nếu loại nước ép đó có hàm lượng calo và các chất dinh dưỡng cao hơn bình thường, chậm tập ăn dặm, không dung nạp những loại thực phẩm mới, ép buộc trẻ ăn, trẻ bị sao lãng trong giờ ăn.
Ngoài ra những căng thẳng về mặt tâm lí xã hội cũng khiến trẻ bị chậm lớn, bao gồm: cha mẹ ly hôn, mất mát người thân yêu, lạm dụng thuốc, bạo lực, bị phớt lờ, từ chối ăn, chuyển nhà mới, có em bé mới, vô gia cư, không được chăm sóc y tế đầy đủ, có những niềm tin trong gia đình không đúng về sức khỏe và dinh dưỡng (ví dụ sợ hãi béo phì...).
- Những yếu tố nguy cơ khiến trẻ bị chậm phát triển thể chất đó là trẻ mắc phải một căn bệnh nhất định nào đó như hội chứng thai chậm tăng trưởng trong tử cung (IUGR), các hội chứng bệnh bẩm sinh, sinh quái thai, dị ứng/không dung nạp sữa có chứa protein, bệnh celiac, nhiễm HIV, bệnh xơ nang, bệnh tim bẩm sinh, trào ngược dạ dày, sự trao đổi chất, nhiễm sắc thể hay cơ thể dị biệt.
Ngoài ra các rối loạn ăn uống còn được phân loại dựa trên các giai đoạn phát triển của trẻ sơ sinh và quan niệm về sự chia rẽ và tính cá nhân.
Trong phạm vi này, ba giai đoạn của quá trình nuôi dưỡng gồm: cân bằng nội môi, sự gắn bó, sự chia rẽ và tính cá nhân. Trong giai đoạn cân bằng nội môi, trẻ sơ sinh học để điều chỉnh các hành vi bú, nuốt và ngừng ăn bằng cách biểu hiện các dấu hiệu đói và no nê.
Không điều khiển được những kỹ năng này sẽ khiến trẻ gặp phải những vấn đề ở giai đoạn tiếp theo – giai đoạn gắn bó. Trong giai đoạn này, em bé sơ sinh phát triển các khuôn mẫu tương tác với người chăm sóc, đặc biệt tỏ ra thèm muốn và hứng thú ăn uống.
Nếu không có cảm giác hào hứng hay thèm ăn trong quá trình cho ăn thì có thể dẫn đến rối loạn hành vi chẳng hạn như nôn mửa hoặc nhai đi nhai lại thức ăn. Những vấn đề gặp phải khi cho ăn phát triển ở giai đoạn thứ ba có thể dẫn đến tình trạng không thể phân biệt được rõ ràng giữa nhu cầu thể chất và nhu cầu tinh thần.
Có ba loại rối loạn ăn uống ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ mắc bệnh chậm phát triển, bao gồm:
Khuyến nghị về dinh dưỡng và bổ sung dinh dưỡng cho trẻ chậm phát triển
Cung cấp năng lượng và protein cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu bắt kịp đà tăng trưởng:
- Đối với trẻ sơ sinh:
- Đối với trẻ tập đi:
Đối với các chế phẩm từ sữa:
Đối với nhóm thực phẩm có chứa protein:
Đối với các loại trái cây và rau củ quả:
Đối với các loại hạt:
Dinh dưỡng điều trị: Chúng ta cần làm gì khi trẻ mắc bệnh chậm phát triển
Dinh dưỡng điều trị cho trẻ chậm lớn cần bao gồm các chăm sóc ở các khía cạnh khác nhau, cần quan tâm đến đặc điểm sinh lý học, dinh dưỡng và các yếu tố xã hội liên quan đến tình trạng thiếu dinh dưỡng của trẻ. Vì vậy, đội ngũ điều trị nên bao gồm cả bác sĩ, y tá, nhân viên công tác xã hội, nhà tâm lý học và nhà nghiên cứu về lĩnh vực dinh dưỡng. Nhìn chung, dinh dưỡng điều trị đối với trường hợp thiếu dinh dưỡng cần tiến hành theo các bước sau:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng
2. Cung cấp dinh dưỡng để đáp ứng các nhu cầu phát triển
3. Cụ thể và cá nhân hóa các hướng dẫn dinh dưỡng
Đối với trẻ chậm phát triển, cần phối hợp các biện pháp xử trí khác nhau. Cha mẹ cần có cách cho ăn đúng, các biện pháp can thiệp hỗ trợ để cung cấp đầy đủ năng lượng và các dưỡng chất thiết yếu giúp trẻ bắt kịp đà tăng trưởng.
Cách cho trẻ ăn đúng:
Ngoài ra, trong nhiều trường hợp cần có biện pháp can thiệp thêm để hỗ trợ trẻ.
Xác định nguồn thực phẩm dựa theo các chương trình hỗ trợ dinh dưỡng nếu cần thiết.
Xác định các hệ thống hỗ trợ giúp tối giản căng thẳng giữa cha mẹ. Ví dụ: dịch vụ chăm sóc trẻ em, tư vấn.
Các lớp học làm cha mẹ, đặc biệt dành cho những người cha/ mẹ trẻ tuổi là rất hữu ích. Nhiều trường hợp cần phải cho trẻ nằm viện, dùng các chất kích thích cảm giác thèm ăn và cho ăn bằng đường ống nếu trẻ không thể ăn qua đường miệng.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh