Xâm hại tình dục trẻ em luôn là một trong những tội phạm đáng bị khinh thường, ghê sợ nhất mà không gì có thể bào chữa và dung thứ. Hành động phá hủy tuổi thơ, đập tan tâm hồn non nớt của một đứa trẻ sẽ không bao giờ được xã hội chấp nhận.
Tuy nhiên, bạn vẫn cần hiểu đúng về ấu dâm và ái nhi, vì những người chưa phạm tội, họ thực sự cần giúp đỡ. Và giúp đỡ họ cũng chính là tự bảo vệ mình.
Một người "ái nhi" là người có sở thích và ham muốn tình dục đối với trẻ em tiền dậy thì hoặc mới dậy thì. Ở nước ngoài, người ta xếp ái nhi vào dạng một bệnh lý, với tên khoa học là pedophilia.
Tại Việt Nam, chúng ta thường dùng chung từ "ấu dâm" để chỉ cả những người "ái nhi" và những kẻ phạm tội xâm phạm tình dục với trẻ em (tiếng Anh gọi là child molestation). Nhưng theo nhiều ý kiến chuyên gia, cần phân biệt giữa 2 khái niệm này, vì không phải người "ái nhi" nào cũng có những hành vi xâm hại trẻ em.
Tức là tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em là ái nhi, nhưng cái đưa những kẻ này vào tù là hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Nếu không có những hành vi như vậy, những kẻ đó vẫn sẽ là một công dân bình thường, dù tư tưởng có nghĩ gì đi chăng nữa. Giống như việc đàn ông có thể... nghĩ bậy thoải mái về nữ giới, nhưng nếu anh ta không có hành vi cưỡng ép, quấy rối hay làm điều gì đó vi phạm pháp luật, anh vẫn tự do.
Quay trở lại chứng ái nhi, theo James Cantor - một chuyên gia quốc tế nghiên cứu về lĩnh vực này - thì đây giống như một khuynh hướng thay vì là bệnh lý, như cụm từ "xu hướng tính dục" dành cho đồng tính luyến ái.
Nhưng không thể gọi ái nhi là xu hướng tính dục (sexual orientation), vì nhiều quốc gia đã đưa ra đạo luật và chính sách cấm phân biệt đối xử đối với người đồng tính. Người ái nhi không thể nằm trong danh sách này.
Thay vào đó, các chuyên gia đưa ra một cụm từ khác là "thiên hướng độ tuổi" - age orientation. Và nếu gọi ái nhi là một khuynh hướng, bạn có hiểu những người ái nhi có số phận... bi kịch thế nào không? Trong khi đồng tính luyến ái đang dần được công nhận, được đấu tranh đòi quyền bình đẳng, thì ái nhi chắc chắn sẽ không bao giờ được xã hội chấp thuận.
Hơn nữa theo tiến sĩ Cantor, nếu coi ái nhi là một bệnh lý, thì đến nay cũng không có cách nào "chữa lành" bệnh cho họ. Những nghiên cứu cố biến người ái nhi thành người bình thường từ trước đến nay cho kết quả không khác gì các thử nghiệm đưa người đồng tính thành người dị tính cả.
Những người ái nhi cần được giúp đỡ! Và giúp họ cũng chính là để bảo vệ chúng ta!
Trong các nghiên cứu, có một số mối liên hệ giữa cấu trúc não bộ với xu hướng "thích trẻ em" của người ái nhi. Tức là những người này bẩm sinh đã là ái nhi, và họ không có quyền lựa chọn.
Giải pháp gần như duy nhất dành cho người ái nhi là giúp họ phát triển những kỹ năng cần thiết để có một cuộc sống lành mạnh, không phạm tội. Một số trường hợp quá nghiêm trọng thậm chí phải "thiến hóa học" - sử dụng thuốc làm giảm ham muốn tình dục, thậm chí "tắt" vĩnh viễn bản năng của đối tượng.
Nhưng tại sao lại phải giúp đỡ họ? Câu hỏi này chắc chắn được những người cực đoan nghĩ rất nhiều. Tại sao không đơn giản là cô lập những người này, đẩy họ ra khỏi xã hội?
Câu trả lời là điều này sẽ phản tác dụng! Tiến sĩ Cantor cho biết, theo nhiều thống kê thì những người ái nhi dễ phạm tội nhất khi họ cảm thấy xã hội này không có chỗ cho họ, và họ chẳng có gì để mất. Họ phạm tội vào những thời điểm cảm thấy suy sụp nhất. Và chính sự xa lánh của xã hội sẽ khiến cảm giác suy sụp này tăng lên. Cuối cùng, hoặc họ sẽ tự kết thúc mạng sống của mình, hoặc họ sẽ bất chấp tất cả mà thực hiện tội ác.
Hơn nữa, việc cô lập sẽ khiến người ái nhi không bao giờ dám thừa nhận bản thân. Họ không muốn tìm đến sự giúp đỡ từ các chuyên gia tâm lý, để rồi sống lặng lẽ trong xã hội như những quả bom nổ chậm chỉ chực chờ bùng phát.
Ở các nước phát triển phương Tây, trẻ em được giáo dục rất kỹ về tình dục và các vấn đề liên quan. Trẻ được học cách tự bảo vệ thân thể, ngăn không cho bất kỳ ai đụng chạm, và biết báo lại cho cha mẹ khi ai đó có hành vi bất thường.
Trong khi đó tại Việt Nam, vấn đề này chưa được chú trọng cụ thể. Chúng ta coi việc đụng chạm là chuyện bình thường. Nhiều bố mẹ Việt Nam có hành vi sờ mó bộ phận sinh dục trẻ nhỏ, qua đó hình thành cho bé suy nghĩ rằng đó là hành vi yêu thương. Và chính họ đang tạo điều kiện cho những người ái nhi có cơ hội thỏa mãn dục vọng của bản thân.
Do vậy, chúng ta cần phải thay đổi. Cần phải dạy cho trẻ biết cách tự bảo vệ bản thân, hiểu rằng cơ thể là điều riêng tư, là thứ không ai được phép chạm vào khi chưa được sự cho phép của bản thân.
Có nhiều cách đề làm điều này. Trong đó, quy tắc hiện đang được áp dụng nhiều nhất là Quy tắc đồ lót - PANTS Rules do NSPCC - tổ chức bảo vệ trẻ em tại Anh - đưa ra. Hãy áp dụng ngay, vì tương lai con trẻ.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh