Về cơ chế bệnh sinh của bệnh đau nửa đầu, có hai pha khác biệt nhau rõ rệt: pha báo cơn và pha đau đầu là hậu quả của giãn mạch máu não. Nếu chẩn đoán nhầm dễ dẫn đến điều trị không đúng làm trầm trọng thêm bệnh, có nguy cơ đe dọa sinh mạng người bệnh.
Pha báo cơn của đau nửa đầu
Trong tất cả các trường hợp, các hiện tượng báo cơn đều tạm thời và hoàn toàn mất đi trong vòng 30 – 45 phút và mất hẳn khi xuất hiện đau nửa đầu.
Rối loạn thị giác: ám điểm lấp lánh là biểu hiện phổ biến và cơ bản nhất. Bệnh nhân cảm thụ như nhìn thấy một vệt tối có vân tia sáng viền thành hình ngoằn ngoèo, lấp lánh nhưng khi các hình ảnh này mất đi, để lại những khoảng trống ám điểm làm “cụt thị trường” tức là khoảng không gian cảm thụ nhìn của mắt bị mất một phần, một khi không nhìn thấy một phần thị trường ở nơi có ám điểm nữa, người ta gọi là mù ám điểm.
Khi tuần hoàn khu vực của động mạch não sau bị rối loạn, người bệnh cảm thấy hiện tượng tỏa sáng ở nửa thị trường, nếu các rối loạn này xảy ra ở các vùng thuộc động mạch võng mạc, người bệnh nhận thấy hiện tượng tỏa sáng ở thị trường của một mắt.
Nếu biến đổi lưu lượng máu, khu vực của hai khe cựa vỏ não, hiện tượng tỏa sáng sẽ nhận thấy ở bình diện cao trên hoặc dưới của hai mắt.
Ám điểm này còn có thể xuất hiện trước, ảo giác bán thị miêu tả hình ảnh các cảnh trí và cảnh sắc thân thuộc.
Ở cùng một bệnh nhân, ám điểm này có thể biến đổi từ cơn này sang cơn khác, chiếu hình, lúc ở nửa thị trường, lúc ở phần dưới thị trường một mắt… Đặc tính luân phiên của ám điểm này tạo thành một yếu tố quyết định để chẩn đoán đau nửa đầu thể não.
Các biểu hiện thị giác khác có thể là một thoáng lờ mờ làm tối thị trường, một số trường hợp lại biểu hiện thành một đám sương mù, nhiều nơi lỗ chỗ không đều, một số trường hợp khác lại bị loạn thị hai bên, trong cơn ám điểm chiếu hình một cách lan tỏa trong toàn bộ thị trường và có thể dẫn tới mù vỏ não tạm thời.
– Rối loạn cảm giác: Trong 70% trường hợp, pha thị giác có biểu hiện rối loạn cảm giác kèm theo, biểu hiện bằng các hiện tượng dị cảm kiểu kiến bò, tê cóng, hiếm hơn là mất cảm giác hoàn toàn. Các hiện tượng này chỉ thấy ở một bên và đặc biệt có khu trú dị cảm nửa mồm – tay. Dị cảm bắt đầu từ bàn tay, lan lên khuỷu rồi tới mồm, hoặc từ mồm lan ra tay một cách tuần tiến. Các hiện tượng này hoàn toàn tan đi trong 20 – 30 phút.
– Rối loạn ngôn ngữ: Rối loạn này ít xảy ra hơn nhưng gây lo lắng cho người bệnh được biểu hiện bằng quên từ, loạn ngôn, bịa tiếng, mất đọc, mất viết, mất tính toán.
– Các tiền triệu báo cơn khác: Trong hàng ngũ các biểu hiện khác thường, khó chẩn đoán, nếu lại xuất hiện thêm hội chứng rối loạn sơ đồ thân thể kiểu tri giác nhầm là chi đã biến dạng.
Bệnh nhân có ấn tượng chi dài hay to ra, mặc dầu bệnh nhân tự cho là vô lý. Khoảng 3 – 5% bệnh nhân có cảm giác âm u trong đầu hay rối loạn giấc ngủ.
Pha đau đầu của đau nửa đầu
Pha đau đầu tiếp ngay sau pha tiền triệu. Đau đầu tăng dần có khi nhanh chóng trở nên dữ dội làm cho bệnh nhân rất khổ sở. Đây là đau đầu kiểu mạch đập, đôi khi làm cho người bệnh có ấn tượng đầu bị bung ra.
Người bệnh nằm nghỉ một mình trong buồng, tìm chỗ tối và yên lặng vì ánh sáng có tác dụng làm tăng hiện tượng đau đầu.
Đau đầu kèm theo buồn nôn (khoảng 50% bệnh nhân), buồn nôn rồi nôn (80% bệnh nhân), đôi khi nôn ra thức ăn và mật, làm cho bệnh nhân dễ chịu trong chốc lát.
Lúc đầu thường đau một bên, sau dễ dàng chuyển sang đau vùng trán, ổ mắt cùng một bên hoặc sau đầu rồi lan ra toàn bộ. Thời gian đau đầu rất khác nhau.
Đau đầu ít khi kéo dài quá 6 tiếng nhưng nó có thể tồn tại trong 12 đến 24 giờ, có khi đến 48 hoặc 72 giờ. Cơn đau thường chấm dứt khi nôn và đái nhiều.
Từ cơn này sang cơn khác, đau đầu cũng như ám điểm có thể đổi bên hoặc luôn khu trú tại cùng một bên khá cố định.
Điều trị đau nửa đầu thể não thế nào?
Có thể nói, phương cách điều trị đau nửa đầu được xem như là chiến thuật điều trị, do đó cần chọn lọc thuốc nào thích hợp nhất đối với từng thể bệnh. Cần đặc biệt chống chỉ định và tương tác thuốc khi phối hợp sử dụng.
Trong điều trị nội khoa đau nửa đầu thể não có thể sử dụng hai loại là thuốc cắt cơn và thuốc điều trị nền. Thuốc cắt cơn kinh điển và đặc hiệu là Ergotamin Tartrat cần cho sử dụng sớm ngay từ khi xuất hiện tiền triệu, những trường hợp thất bại là do dùng thuốc chậm, liều dùng không thích hợp, đường dùng thuốc (uống, nạp thuốc hậu môn, tiêm) không phù hợp với bệnh trạng của từng người bệnh hay dung nạp thuốc kém.
Cần đặc biệt chú trọng thuốc này có thể gây nghiện, đáng sợ nhất là diễn biến bệnh chuyển sang thể trạng thái đau đầu nặng lên và liên tục không thành cơn nữa.
Nếu dùng quá liều sẽ gây ngộ độc ergotin (co mạch máu ở chân dẫn đến hoại thư…). Cần thiết có thể cho dùng một số thuốc bổ trợ khác như thuốc giảm đau, chống nôn và thuốc trấn tĩnh thần kinh (chống lo âu, xao xuyến).
Thuốc điều trị nên sử dụng sau khi đã cắt được cơn đau nửa đầu, liều dùng và thời gian điều trị do bác sĩ chuyên khoa quyết định.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh