Sau một thời gian vắng bóng, bệnh não mô cầu có xu hướng xuất hiện trở lại ở một số địa phương.
Nếu không chủ động ngăn chặn thì bệnh có thể bùng phát thành dịch với nhiều người mắc do sự lây lan tại chỗ. Biện pháp phòng bệnh tốt nhất là tiêm phòng vắc-xin.
Bệnh não mô cầu là một bệnh truyền nhiễm gây dịch được lây truyền qua đường hô hấp do nhiễm loại song cầu khuẩn Neisseria meningitidis. Vi khuẩn này thường xâm nhập vào cơ thể người qua đường mũi họng, từ đó lan tỏa vào máu gây nhiễm trùng máu hoặc qua đường máu đến màng não gây viêm màng não mủ hay gây viêm màng não mủ kèm theo nhiễm trùng máu.
Bệnh có khả năng lây truyền qua đường hô hấp do hít phải giọt nước bọt của người mắc bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn và có đặc điểm lây lan mạnh trong thời kỳ bệnh khởi phát.
Nếu sử dụng kháng sinh, vi khuẩn sẽ biến mất khỏi đường mũi họng trong vòng 24 giờ. Thực tế tỉ lệ người lành mang vi khuẩn rất cao, có thể chiếm khoảng 25%; trong các vụ dịch có thể chiếm tới hơn 50% số người nhiễm vi khuẩn nhưng không có triệu chứng lâm sàng.
Bệnh cảnh lâm sàng xảy ra khá đột ngột như: người bệnh bị sốt cao, rét run, đau mỏi toàn toàn thân, đau khớp xương, xuất hiện các ban đỏ xuất huyết hoại tử trên da; có thể xuất hiện biến chứng sốc nhiễm trùng hoặc hội chứng Waterhouse Fridrichsen biểu hiện suy tuyến thượng thận cấp tính.
Những trường hợp bị viêm màng não thường có hội chứng màng não cấp tính như: nhức đầu, nôn, táo bón, cứng gáy, phản ứng vạch màng bụng dương tính; đối với trẻ em thường bị co giật, có tình trạng lơ mơ, hôn mê sâu. Xét nghiệm chọc dò dịch não tủy thấy nước đục như nước vo gạo, đôi khi kèm theo xuất huyết màng não.
Chẩn đoán xác định bệnh bằng phương pháp cấy máu, cấy dịch não tủy để phân lập vi khuẩn não mô cầu. Có thể chẩn đoán nhanh bằng cách chích nốt ban đỏ xuất huyết hoại tử để làm tiêu bản và soi tươi để tìm vi khuẩn não mô cầu. Cũng có thể ngoáy họng làm tiêu bản soi tươi hoặc cấy để tìm vi khuẩn. Trên thực tế việc chẩn đoán khá khó khăn vì tỉ lệ người lành mang vi khuẩn rất cao. Tỉ lệ tử vong do bệnh gây nên chiếm khoảng từ 5 - 15%.
Để phòng bệnh não mô cầu, biện pháp hữu hiệu nhất là tiêm chủng các loại vắc-xin truyền thống thường hay sử dụng.
Vắc-xin não mô cầu AC:
Tên thương mại là Meningococcal polysaccharide vắc-xin AC. Loại vắc-xin này có thời gian bảo vệ khoảng 3 năm.
Tác dụng phụ do phản ứng đối với vaccine trên thực tế hiếm gặp, nếu có xảy ra thì ở người lớn ít hơn trẻ em. Tác dụng phụ được ghi nhận là có phản ứng nhẹ và thoáng qua tại nơi tiêm; đôi khi có sốt nhẹ, bị kích thích và mệt mỏi trong vòng 72 giờ sau khi tiêm vắc-xin.
Trước khi tiêm vắc-xin này cũng như các loại vắc-xin khác, cần phải sàng lọc đối tượng được tiêm phòng theo quy định.
Vắc-xin phòng bệnh não mô cầu được sử dụng để tiêm phòng bệnh cho trẻ em ở vùng có dịch bệnh lưu hành hoặc khi đang có dịch bùng phát. Liều lượng tiêm là 0,5ml; có thể tiêm dưới da hoặc tiêm bắp thịt.
Thường tiêm một liều vắc-xin khi trẻ em được 18 tháng tuổi trở lên. Chú ý thận trọng khi tiêm phòng cho phụ nữ có thai, chỉ tiêm khi thực sự có nguy cơ mắc bệnh trong các vụ dịch. Một vấn đề cũng cần quan tâm là không nên tiêm cho trẻ em dưới 18 tháng tuổi trừ khi đang có dịch bùng phát.
Vắc-xin não mô cầu BC:
Tên thương mại là VA-MENGOC-BC. Vắc-xin này được sử dụng nhằm tạo miễn dịch chủ động để phòng bệnh viêm màng não do não mô cầu nhóm huyết thanh B và C, dùng tiêm cho trẻ em từ tháng tuổi thứ ba và các đối tượng sống trong vùng dịch hay phải đi đến vùng dịch bệnh.
Ngoài ra, vắc-xin cũng nên tiêm cho những người sống tập thể như các trung tâm chăm sóc trẻ em nội trú, doanh trại quân đội, nhà tù, các vùng có mật độ dân cư cao hoặc ở cộng đồng phát hiện những trường hợp nhiễm bệnh não mô cầu nhóm huyết thanh B và C vì người dân ở đây có nguy cơ bị phơi nhiễm.
Như các loại vắc-xin khác, vắc-xin này chống chỉ định dùng cho những người có phản ứng quá mẫn đối với bất cứ thành phần nào của vắc-xin. Ngoài ra cũng chống chỉ định sử dụng trong các trường hợp sốt, nhiễm khuẩn cấp tính, dị ứng đang tiến triển, các bệnh mãn tính không tự điều chỉnh. Hiếm khi gặp phản ứng nghiêm trọng xảy ra trong lần đầu tiên tiêm vắc-xin này, nếu có thì chống chỉ định tiêm lần hai.
Thận trọng không sử dụng vắc-xin cho phụ nữ mang thai trừ khi thật cần thiết và có nguy cơ dịch tễ học cao. Trong quá trình tiêm phòng, cần có sẵn thuốc tích hợp như dung dịch adrenaline1% để xử trí đề phòng các trường hợp xảy ra phản ứng quá mẫn. Đối với những người suy giảm miễn dịch hay đang điều trị suy giảm miễn dịch có thể không có đáp ứng đầy đủ với vắc-xin.
Chú ý không bao giờ được tiêm vắc-xin theo đường tĩnh mạch và thực hiện đúng việc bảo quản trong việc lấy một liều hay nhiều liều vắc-xin từ lọ đóng nhiều liều để bảo đảm chất lượng sản phẩm. Vắc-xin cơ bản được sử dụng bằng cách tiêm phòng hai liều 0,5ml; khoảng cách giữa hai lần tiêm là từ 6 - 8 tuần.
Tiêm liều thứ hai là điều bắt buộc để đạt được mức bảo vệ tốt. Quy định tiêm phòng được áp dụng đối với trẻ em từ 3 tháng tuổi trở lên. Theo kinh nghiệm sử dụng vắc-xin, không cần thiết phải tiêm nhắc lại. Khi tiến hành tiêm nhắc lại, không loại trừ những người không có bằng chứng cho thấy đã tiêm phòng đủ hai mũi tiêm vắc-xin trước đó.
Ngoài ra còn có loại vắc-xin khác phối hợp các nhóm A, C, Y và W135 nhưng việc sử dụng phải do các bác sĩ chỉ định.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh