Stress là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi hàng ngày cũng như trong các phương tiện truyền thông. Stress đôi khi được dùng để chỉ một nguyên nhân, một tác nhân kích thích làm cơ thể khó chịu, ngoài ra stress còn được dùng để chỉ hậu quả của tác nhân công kích này.
Theo Hans Selye: stress được coi là mối tương tác giữa kích thích và phản ứng của cơ thể. Trong điều kiện bình thường, phản ứng stress thiết lập một cân bằng mới, trong điều kiện bệnh lí, stress gây nên rối loạn tâm thần và các rối loạn cơ thể.
Phản ứng stress trở thành bệnh lí khi tình huống gây stress hoặc bất ngờ, quá dữ dội hoặc ngược lại, quen thuộc nhưng lặp lại vượt quá khả năng dàn xếp việc thích ứng của chủ thể.
Phản ứng với stress và các rối loạn sự thích ứng là những rối loạn hoạt động tâm thần và chức năng tâm lí do các chấn thương tâm lí khác nhau gây ra.
Phản ứng với stress gặp ở mọi lứa tuổi, tỉ lệ rối loạn stress cấp trong nhân dân phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng và ngưỡng chịu đựng của người bệnh với chấn thương tâm lí.
Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1992, phản ứng với stress trầm trọng và rối loạn thích ứng (F43) gồm:
Phản ứng stress cấp là một trạng thái cấp tính của stress được đặc trưng bởi một rối loạn tâm thần nhất thời, rất trầm trọng, phát triển ở một cá nhân đáp ứng lại stress với một thể chất căng thẳng hoặc một trạng thái tâm thần đặc biệt và mất đi trong vòng vài giờ hoặc vài ngày.
Ít gặp, có thể gặp stress kéo dài, nhưng khi có các yếu tố tác động sau:
Xuất hiện ngay sau sốc tâm thần, có thể thay đổi từ kích động sang bất động trong một thời gian ngắn, bao giờ cũng kèm theo tình trạng rối loạn thần kinh thực vật… Thời gian từ vài phút đến vài ngày.
Giữ nguyên tư thế, không thể cử động, không nói mặc dù nguy hiểm đến gần.
Mất khả năng phản ứng cảm xúc, mất khả năng đáp ứng với ngoại cảnh, ý thức thu hẹp, rối loạn chú ý và định hướng,…
Tình trạng trên có thể kéo dài vài giờ đến 2 - 3 ngày, sau đó là giai đoạn hồi phục, suy nhược và mất trí nhớ.
Hưng phấn vận động và ngôn ngữ: đột ngột la hét bỏ chạy, có nhiều hành động vô nghĩa…
Ý thức thu hẹp, rối loạn định hướng và chú ý.
Cơn xảy ra rất nhanh, vài phút đến 20 phút.
Sau cơn là tình trạng quên và suy sụp.
Bao giờ cũng có, luôn đi kèm với trạng thái kích động hoặc bất động: vã mồ hôi, mạch nhanh, co cứng cơ, đái dầm,…
Căn cứ vào các đặc điểm sau:
Khi điều trị đúng, bệnh khỏi nhanh và hoàn toàn.
Cách li khỏi môi trường gây stress.
Động viên, hỗ trợ tâm lí cho bệnh nhân.
Loại trừ những nhân tố thúc đẩy rối loạn stress, tăng cường sức đề kháng của cơ thể.
Có thể sử dụng thuốc bình thần trong thời gian ngắn.
Rối loạn stress sau sang chấn là các rối loạn phát sinh như một đáp ứng trì hoãn sau chấn thương tâm lí có tính chất đe doạ hoặc thảm hoạ đặc biệt, và có thể gây đau khổ lan tràn cho hầu hết bất cứ ai, xuất hiện từ vài tuần đến vài tháng, tối đa là dưới 6 tháng sau stress. Có thể tiến triển thuận lợi (khỏi bệnh) hoặc dao động (tái phát tăng hoặc giảm bệnh). Một số ít có thể kéo dài và để lại biến đổi nhân cách.
Trong các yếu tố phù trợ đáng chú ý là đặc điểm nhân cách, có vai trò lớn trong phát sinh và tiến triển của bệnh.
Các triệu chứng lâm sàng của rối loạn stress phát triển có liên quan với yếu tố chấn thương tâm lí quá mạnh, tác động trực tiếp tới người bệnh như:
Các triệu chứng của rối loạn stress đa dạng tùy từng người bệnh có các biểu hiện khác nhau, gồm các triệu chứng:
Các triệu chứng sẽ bình phục dần, một số trường hợp tiến triển mạn tính qua nhiều năm và làm biến đổi nhân cách.
Dựa vào các đặc điểm chính sau:
Liệu pháp tâm lí là rất quan trọng:
Có thể dùng thuốc chống lo âu và điều trị rối loạn giấc ngủ (chỉ điều trị ngắn ngày) như: diazepam, alprazolam, nitrazepam, clonazepam… Ngoài ra có thể dùng thêm các thuốc tăng cường thể trạng, nâng cao sức đề kháng. Trong một số trường hợp có thể kết hợp các thuốc chống trầm cảm.
Các rối loạn thích ứng là các trạng thái đau khổ chủ quan và rối loạn cảm xúc, thường gây trở ngại cho hoạt động xã hội và hiệu suất lao động, nổi lên trong thời kì thích ứng với sự thay đổi đáng kể trong đời sống hoặc hậu quả của một sự kiện đời sống gây stress (bao gồm các bệnh cơ thể nặng hiện có hay có thể có). Tác nhân gây stress có thể ảnh hưởng lên sự toàn vẹn các mối quan hệ xã hội của cá nhân (tang tóc hay chia li) hoặc hệ thống rộng hơn, như các phúc lợi xã hội (ví dụ: người nhập cư). Tác nhân gây stress không những đụng chạm đến cá nhân mà còn đụng chạm đến nhóm và cộng đồng. Tố bẩm cá thể đóng vai trò nhất định trong nguy cơ mắc bệnh.
Đặc điểm lâm sàng nổi bật của rối loạn sự thích ứng là các rối loạn về khí sắc, thường xuất hiện trong vòng một tháng sau khi xảy ra sự kiện gây stress và kéo dài không quá 6 tháng.
Bệnh nhân buồn rầu, lo lắng, cảm giác không có khả năng đối phó, dự định trước hoặc tiếp tục hoàn cảnh thực tại.
Giảm sút có mức độ hiệu quả công việc và thói quen hàng ngày.
Cảm xúc dễ bùng nổ có thể xuất hiện.
Trẻ em xuất hiện hành vi chống xã hội, nhưng không đặc hiệu.
Các triệu chứng trầm cảm, hoặc trầm cảm - lo âu trong rối loạn sự thích ứng gồm:
Phản ứmg trầm cảm ngắn: thời gian dưới 1 tháng.
Phản ứng trầm cảm kéo dài: thời gian không quá 2 năm.
Phản ứng hỗn hợp lo âu, trầm cảm.
Phản ứng với các rối loạn cảm xúc khác chiếm ưu thế.
Phản ứng với các rối loạn hành vi chiếm ưu thế.
Phản ứng với các triệu chứng ưu thế biệt định khác.
Căn cứ vào:
Có thể dùng :
Thuốc điều trị rối loạn giấc ngủ, bình thần: nhóm benzodiazepin.
Thuốc chống lo âu, trầm cảm.
Thuốc tăng cường thể trạng, nâng cao sức đề kháng, ví dụ các vitamin.
Cách li với môi trường gây stress.
Sử dụng liệu pháp tâm lí cá nhân hoặc kết hợp với liệu pháp gia đình.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh