Theo các chuyên gia, việc ngăn chặn người bị trầm cảm có ý định tự tử là hoàn toàn có thể nhưng chỉ với điều kiện tiên quyết là họ cần được hỗ trợ một cách kịp thời và quyết liệt. Nhưng đó lại là thứ đang thiếu ở VN, nhất là khi những người bị trầm cảm đang bị xã hội thờ ơ.
Trung bình mỗi ngày có hơn 800 lượt bệnh nhân đến thăm khám và điều trị, trong số đó có khoảng 15% là các bệnh nhân có dấu hiệu trầm cảm.
Những lầm tưởng của xã hội đang khiến người bệnh tâm thần trở nên xa lánh với mọi người và nguy hiểm nhất là họ từ chối sự giúp đỡ, phủ nhận có bệnh hoặc tự tìm đến sự giải thoát cho mình.
Các bác sĩ cũng cho rằng lối sống hiện đại nảy sinh rất nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý con người. Như làm ăn thua lỗ, thất bại trong công việc đối với người trưởng thành hay áp lực thi cử, học hành đối với học sinh, hay đổ vỡ chuyện tình yêu, gia đình đối với người trẻ.
Những người bị trầm cảm nặng, có ý nghĩ khi chết đi sẽ tốt hơn cho mọi người xung quanh và là sự giải thoát, là những người đang gặp những vấn đề cực kì nghiêm trọng và cần sự giúp đỡ khẩn cấp từ các bác sĩ tâm thần.
Dưới góc độ chuyên môn, các bác sĩ cho rằng khi một bệnh nhân nói muốn chết thì đó không bao giờ là câu nói đùa.
Các dấu hiệu như mặc cảm tội lỗi và vô dụng, theo các bác sĩ là những dấu hiệu người bị trầm cảm dễ nghĩ đến cái chết, và giúp họ đánh giá được mức độ “mãnh liệt” trong suy nghĩ muốn chết.
Bên cạnh đó việc các bệnh nhân lầm tưởng về mức độ nghiêm trọng về bệnh tình đôi khi khiến cho các phương pháp chữa trị không hiệu quả.
Mọi người cứ nghĩ vào BV tâm thần tức là bị điên, tôi nói điên ở đây tức là bệnh tâm thần phân liệt, chỉ là một trong cả trăm các bệnh về lĩnh vực tâm thần, bao gồm cả trầm cảm, mất ngủ, lo âu, alzheimer….
Trả lời Zing.vn, Ellyson Stout, chuyên gia sức khoẻ cộng đồng với hơn 20 năm kinh nghiệm, hiện là Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ và Ngăn chặn Tự sát (Suicide Prevention Resource Center), trung tâm về các vấn đề tự sát duy nhất được chính phủ Mỹ bảo trợ, cho biết bà rất ngạc nhiên vì tình trạng tự tử ở Việt Nam lại đáng báo động như vậy.Bà Stout cho biết đã từng có thời điểm xã hội Mỹ cũng tỏ ra thờ ơ với các bệnh nhân trầm cảm và tự tử, và đã cần rất nhiều công sức và nguồn lực mới có thể thay đổi suy nghĩ của mọi người về tự tử.
“Chúng tôi đã phải mất rất nhiều năm, với nhiều cách thức khác nhau để nâng cao hiểu biết cho người dân về vấn đề này, và tôi nghĩ Việt Nam cũng sẽ như vậy, các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vị trí quan trọng trong sự cảnh tỉnh cũng như kêu gọi ủng hộ, tài trợ từ Nhà nước”, bà Stout nói.
Với tình trạng cứ 4 người có một người mắc các bệnh về tâm thần hiện nay tại Việt Nam, chúng ta vẫn chưa có cái nhìn đúng với tính chất nghiêm trọng của vấn đề.
Hiện tại, ngành tâm thần vẫn được cho là ngành “vừa thiếu, vừa yếu”, trong khi trầm cảm là nguyên nhân dẫn đến hàng chục nghìn cái chết một năm tại Việt Nam, nên nhớ số người chết vì tai nạn giao thông thậm chí còn chưa vượt ngưỡng 15.000 người một năm.
Nghiên cứu “Sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em và thanh niên tại một số tỉnh và thành phố ở Việt Nam” thực hiện bởi UNICEF, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Viện Nghiên cứu và Phát triển Hải ngoại đã chỉ ra những yếu kém và thiếu hụt nhiều mặt trong công tác chăm sóc sức khoẻ tâm thần tại Việt Nam.
Nghiên cứu chỉ ra Việt Nam đang rất thiếu đội ngũ y, bác sĩ có trình độ và phù hợp về giới để điều trị cho người bệnh, đặc biệt thiếu nguồn nhân lực có thể giải quyết các vấn đề tâm thần ở trẻ em và người chưa vị thành niên.
Cùng với đó, báo cáo cũng đánh giá thù lao của cán bộ, nhân viên y tế trong ngành tâm thần vẫn còn thấp so với tính chất căng thẳng của công việc và cường độ công việc.
Các trang thiết bị y tế, cơ sở vật chất cho ngành vẫn bị đánh giá ở mức “nghèo nàn”, chưa đủ đáp ứng điều trị tâm thần cho các bệnh nhân thời điểm hiện tại. Bên cạnh đó, đang còn rất thiếu các bệnh viện tâm thần tuyến tỉnh, và đặc biệt thiếu các chương trình điều trị, khám bệnh cho trẻ em.
Ngành tâm thần thời gian gần đây đã được tiếp xúc nhiều với các công nghệ, phương pháp của thế giới, nhưng chừng đó thôi là chưa đủ, chưa thể đáp ứng cho những người bị bệnh tại Việt Nam.
Ngành tâm thần muốn “hết yếu, hết thiếu” chỉ còn cách đầu tư một cách đồng bộ và chuyên nghiệp, chỉ như vậy các bệnh nhân tâm thần và các y bác sĩ ngành này mới hết chịu cảnh thiệt thòi và mặc cảm từ xã hội.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh