Những yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch mà bạn nên biết

Bệnh mạch vành (CAD), có thể dẫn tới nhồi máu cơ tim, là căn bệnh tim mạch phổ biến nhất. Cơn nhồi máu cơ tim diễn ra khi máu và nguồn cung cấp oxy tới cơ tim tắc nghẽn một phần hoặc hoàn toàn, thường là do sự tích tụ của các mảng xơ vữa trên thành mạch máu. Cứ 3 phụ nữ thì có 1 người tử vong do nhồi máu cơ tim mỗi năm, tức là cứ mỗi phút lại có 1 người chết.

Nguyên nhân gây nhồi máu cơ tim là do sự bít tắc của động mạch tại tim, do các mảng xơ vữa và cục máu đông, nhưng cơ chế hình thành của những yếu tố này ở mỗi giới là khác nhau. Phụ nữ thường có các mảng xơ vữa nhỏ, dễ vỡ và hình thành những cục máu đông nhỏ hơn, làm tắc nghẽn từ từ. Ngoài ra, phụ nữ có xu hướng tiến triển chứng nhồi máu cơ tim muộn hơn 10 năm so với nam giới khi sức khỏe của họ suy giảm.

Một trong những lý do khiến phụ nữ thường mắc chứng nhồi máu cơ tim muộn hơn nam giới là suy giảm nồng độ estrogen trong thời kỳ mãn kinh. Nguyên nhân của cơn đau tim và các dấu hiệu cảnh báo cũng khác nhau ở cả hai giới. Những phụ nữ không nhận ra những sự khác biệt này thường không được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim ở phụ nữ

Những dấu hiệu đau tim chính là đau tức ngực, nặng ngực, khó thở, vã mồ hôi. Ngoài ra có thể gặp các dấu hiệu khác như khó thở; đau cánh tay, mỏi lưng và hàm; buồn nôn; đánh trống ngực; choáng váng; mất vị giác. Những dấu hiệu này dễ bị bỏ qua, dẫn tới không được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

 

Các yếu tố nguy cơ, sự khác biệt giữa nam và nữ

Estrogen

Estrogen giúp duy trì huyết áp bình thường ở phụ nữ trước giai đoạn mãn kinh. Tuy nhiên sau mãn kinh, tỷ lệ phụ nữ bị mắc chứng cao huyết áp thường cao hơn nam giới: Chỉ 44% có thể kiểm soát được huyết áp của họ, so với nam giới là 51%.

Cholesterol

Sự gia tăng nồng độ cholesterol có những tác động tiêu cực đối với tim mạch ở cả nam và nữ. Những loại thuốc thường được sử dụng để kiểm soát cholesterol máu cũng có hiệu quả tương tự ở cả hai giới. Tuy nhiên, trong số những người cao tuổi, phụ nữ thường ít sử dụng các thuốc hạ mỡ máu hơn nam giới vì rất nhiều lý do.

Hút thuốc lá

Những phụ nữ hút thuốc lá có nguy cơ gặp phải các biến cố tim mạch cao hơn đàn ông hút thuốc tới 25%. Ngoài ra, sự kết hợp giữa thuốc lá và việc sử dụng thuốc tránh thai đường uống cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim.

Đường huyết

Tình trạng tăng đường huyết (trong bệnh tiểu đường) có một tác động lớn đối với phụ nữ hơn so với nam giới. Trên thực tế, với một phụ nữ trẻ mắc bệnh tiểu đường, nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn từ 4-5 lần so với những người đàn ông cùng tuổi. Ngoài ra, những phụ nữ đang ở giai đoạn tiền tiểu đường cũng có những tổn thương và mạch máu và rối loạn chuyển hóa sớm hơn so với nam giới.

Ngưng thở lúc ngủ do tắc nghẽn

Ngưng thở lúc ngủ do tắc nghẽn (OSA) là một rối loạn hô hấp nghiêm trọng lúc ngủ, trong đó người bệnh ngưng thở 10 giây hoặc lâu hơn trong khi ngủ. Tình trạng này làm giảm cung cấp oxy tới tất cả các cơ quan trong cơ thể, đặc biệt tim là bộ phận nhạy cảm với suy giảm oxy và bị tổn thương nghiêm trọng. Các triệu chứng phổ biến là buồn ngủ vào ban ngày hay mệt mỏi, cảm giác bồn chồn khi ngủ và ngáy. Phụ nữ mắc chứng OSA cũng có các chỉ điểm phản ứng viêm cao hơn, tâm trạng chán nản hơn và gặp khó khăn hơn trong kiểm soát huyết áp so với nam giới cùng mắc căn bệnh này.

Béo phì

Đối với sức khỏe tim mạch thì béo phì có ảnh hưởng nghiêm trọng hơn ở phụ nữ so với nam giới. Béo phì làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch lên tới 64% ở phụ nữ, con số này ở nam giới là 46%.

Hoạt động thể chất

Có một mối liên quan tỷ lệ nghịch giữa các hoạt động thể chất, nguy cơ mắc bệnh tim mạch và tuổi thọ. Theo các số liệu thuộc nghiên cứu National Health Interview Survey (NHIS) vào năm 2011, số lượng phụ nữ ít hoạt động thể lực là cao hơn so với nam giới (33.2% vs. 29.9%).

 

Những yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch đặc trưng ở phụ nữ

Ngoài những yếu tố nguy cơ phổ biến chung đã được đề cập ở trên, có những yếu tố nguy cơ chỉ xuất hiện ở phụ nữ, như là những biến chứng liên quan đến thai kỳ, các yếu tố hormon. Những vấn đề khác cũng có liên hệ mật thiết đối với sự tiến triển của bệnh tim mạch bao gồm trầm cảm, lo âu, bệnh tự miễn (lupus và viêm khớp dạng thấp), và cơn đau nửa đầu phổ biến hơn hẳn ở đối tượng phụ nữ.

Hội chứng buồng chứng đa nang (PCOS)

PCOS là một căn bệnh gặp ở phụ nữ trong đó có sự mất cân bằng về hormon trong cơ thể. Nó có thể gây rối loạn kinh nguyệt và làm giảm khả năng thụ thai. Những phụ nữ mắc PCOS cũng có nguy cơ mắc các bệnh tiểu đường, béo phì và cao huyết áp cao hơn bình thường. Ngoài ra, phụ nữ mắc PCOS cũng có nồng độ canxi trong các động mạch vành cao hơn và do đó làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim.

Các rối loạn liên quan đến thai kỳ

Thời kỳ mang thai cũng là một giai đoạn mà phụ nữ có nguy cơ gặp phải rất nhiều vấn đề sức khỏe, bao gồm: tiền sản giật, sản giật, tiểu đường thai kỳ và sinh non (sinh trước tuần 37). Những biến chứng này đều có thể dẫn tới các bệnh tim mạch về sau. Ví dụ như những phụ nữ mắc chứng tiền sản giật khi mang thai sẽ làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim gấp 3 lần và cao huyết áp gấp 4 lần. Tiểu đường thai kỳ sẽ làm tăng nguy cơ tiến triển thành bệnh tiểu đường thật sự về sau lên gấp 7 lần, nguy cơ đối với chứng đột quỵ tăng gấp 2 lần và nguy cơ bị nhồi máu cơ tim ở một thời điểm nào đó về sau cao gấp 4 lần. Tình trạng viêm, nhiễm trùng và các bệnh tim mạch được cho là có liên quan.

Các bệnh khớp hệ thống

Các bệnh như lupus ban đỏ hệ thống (SLE) và viêm khớp dạng thấp phổ biến ở nữ giới hơn so với nam giới và làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch ở nữ giới lên tới 50%. Ngoài ra, việc sử dụng corticoid trong điều trị các bệnh này cũng làm tăng tình trạng viêm ở thành mạch máu.

Xạ trị và hóa trị trong điều trị ung thư vú

Việc áp dụng các liệu pháp kể trên trong điều trị đã giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót trong số các bệnh nhân bị ung thư vú. Tuy nhiên, song hành với nó cũng là sự gia tăng độc tính trên tim mạch do các biện pháp hóa trị và xạ trị. Những bệnh nhân mắc ung thư vú được điều trị bằng các liệu pháp trên cần phải được theo dõi các chỉ số tim mạch trong suốt quá trình điều trị.

Trầm cảm và đau nửa đầu

Cả hai căn bệnh này đều có tỷ lệ mắc bệnh ở nữ giới cao hơn so với nam giới, đồng thời chúng cũng có liên quan đến sự gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và đột quỵ. Một nghiên cứu chỉ ra rằng tình trạng trầm cảm mức độ trung bình đến nghiêm trọng sẽ làm gia tăng gấp đôi nguy cơ mắc chứng nhồi máu cơ tim trong 2 năm tiếp theo và tăng nguy cơ tử vong. Vì lý do này, Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ khuyến cáo rằng mỗi phụ nữ nên được kiểm tra và điều trị chứng trầm cảm càng sớm càng tốt. Cơn đau nửa đầu, đặc biệt là cơn đau đầu có thoáng báo (các triệu chứng xuất hiện ngay trước khi cơ đau đầu diễn ra), có liên quan đến sự gia tăng nồng độ cholesterol máu, lười vận động, trầm cảm, rối loạn giấc ngủ và nhồi máu cơ tim.

 

Việc điều trị giữa nam và nữ khác nhau như thế nào

Việc chẩn đoán cũng như điều trị bằng thuốc đối với phụ nữ hiện nay vẫn đang bị trì hoãn bởi nhiều yếu tố.

Phụ nữ thường ít được tiến hành các test đánh giá stress để chẩn đoán bệnh tim mạch.

Phụ nữ thường có tỷ lệ tái nhập viện cao hơn sau khi bị nhồi máu cơ tim cũng như suy tim.

Những loại thuốc có thể giúp cải thiện sau khi bị nhồi máu cơ tim (như aspirin, thuốc chẹn beta và statin) thường ít được kê cho phụ nữ hơn.

Tỷ lệ phụ nữ tham gia luyện tập thể dục khoảng 150 phút/tuần cũng ít hơn so với nam giới.

Mặc dù các bệnh tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ tại Mỹ, các yếu tố nguy cơ bao gồm béo phì, lười vận động, cao huyết áp, đường huyết cao và tăng cholesterol máu tiếp tục gia tăng ở những phụ nữ trẻ. Nhận thức được những yếu tố nguy cơ đặc trưng ở nữ giới và các triệu chứng của bệnh tim mạch có thể giúp phụ nữ phòng tránh và nhận biết được nguy cơ nhồi máu cơ tim của mình.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top