Theo thống kê của Viện Tim mạch Quốc gia, trong những năm gần đây, có tới 50% tổng số bệnh nhân nhập viện là các bệnh van tim do thấp và chiếm đến hơn 90% trong số các bệnh tim mắc phải, trong đó chủ yếu là bệnh van hai lá. Bệnh van hai lá là bệnh khá phổ biến ở các nước nghèo, đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đa số nguyên nhân do thấp tim (rheumatic fever). Bệnh thường khởi đầu là các bệnh nhiễm trùng vùng mũi họng và đường hô hấp do một loại vi khuẩn có tên: Liên cầu khuẩn tan huyết β nhóm A (streptococcus A)
Van hai lá nằm giữa tâm nhĩ và tâm thất trái. Thương tổn van hai lá do thấp tim rất phức tạp và nặng nề. Có 3 loại tổn thương chính là hẹp van, hở van và kết hợp vừa hở vừa hẹp van.
Nguyên nhân chính làm cho van hai lá bị hỏng là do thấp tim không được điều trị triệt để, dẫn đến tổn thương van tim, khiến cho các lá van dày lên, có thể lắng đọng canxi làm lá van cứng lại, hạn chế di động. Các mép van dính lại với nhau gây hẹp lỗ van, các dây chằng dày dính lại với nhau thành một khối khiến van bị hở.
Khó thở là dấu hiệu rất phổ biến của bệnh. Người bệnh ban đầu thấy khó thở khi làm việc nặng hoặc khi gắng sức như lên cầu thang, sau đó mức độ khó thở sẽ tăng dần, chỉ cần làm việc nhẹ như sinh hoạt hàng ngày người bệnh đã thấy khó thở và sẽ đỡ khi nghỉ ngơi. Nếu bệnh không được điều trị, mức độ khó thở sẽ tăng hơn nữa khiến người bệnh khó thở cả khi nghỉ không làm gì, ban đêm thường phải ngồi dậy để thở.
Bên cạnh dấu hiệu khó thở, đôi khi bệnh nhân có ho ra máu, có thể chỉ ho ra ít máu. Dấu hiệu này dễ khiến bệnh nhân cũng như thầy thuốc nhầm với bệnh lý của phổi hay đường hô hấp, chỉ khi kiểm tra về tim mới phát hiện ra bệnh.
Rất nhiều bệnh nhân có những biểu hiện trên, nhưng do điều kiện khó khăn hoặc chủ quan không đến khám khiến mức độ bệnh nặng dần lên. Vì thế, đa số người bệnh đến khám khi bệnh ở giai đoạn nặng.
Bác sĩ chuyên khoa sẽ khám tim, nghe được tiếng thổi bất thường ở vùng tim có thể hướng tới bệnh tim là hẹp hay hở van. Tuy nhiên, để chẩn đoán chính xác cần làm thêm các xét nghiệm chụp phim Xquang, điện tim đồ và đặc biệt là siêu âm tim.
Ngày nay, với siêu âm tim giúp cho thầy thuốc có thể đánh giá chính xác mức độ hẹp hay hở van. Bên cạnh đó, đánh giá được hình thái tổn thương của van, mức độ dày, vôi hóa cũng như tình trạng dây chằng của van hai lá.
Sau khi đánh giá thương tổn van hai lá và các tổn thương phối hợp nếu có ở các van tim khác (như van ba lá, van động mạch chủ), đánh giá chức năng tim, mức độ suy tim, bác sĩ chuyên khoa sẽ có phương án can thiệp phù hợp kết hợp với điều trị nội khoa (điều trị bằng thuốc) trước và sau khi can thiệp. Việc điều trị chống suy tim chủ yếu bằng chế độ ăn hạn chế muối, nghỉ ngơi, dùng thuốc chống suy tim và lợi tiểu.
Với tổn thương hẹp van hai lá đơn thuần: Khi van hai lá chỉ hẹp mà không có hở, có thể mổ nong van bằng dụng cụ hoặc hiện nay phổ biến mổ với tuần hoàn ngoài cơ thể, cho tim ngừng đập, mở nhĩ trái và mở rộng van hai lá. Với phương pháp này, kết quả thường tốt, nhưng với chi phí cho phẫu thuật còn rất cao nên đôi khi vẫn phải lựa chọn mổ nong van bằng dụng cụ với chi phí phẫu thuật thấp hơn, tuy nhiên, kết quả hạn chế hơn.
Có một phương pháp khác là nong van bằng can thiệp mạch qua da. Bác sĩ chuyên khoa can thiệp mạch sẽ dùng một ống thông luồn trong lòng mạch máu từ tĩnh mạch đùi ở bẹn, ống thông đi theo tĩnh mạch về tâm nhĩ phải, rồi chọc qua vách liên nhĩ sang nhĩ trái, sau đó đưa qua van hai lá xuống thất trái. Đầu ống thông có quả bóng, khi bơm căng bóng sẽ nong rộng lỗ van.
Với phương pháp này, bệnh nhân không phải phẫu thuật, thời gian nằm viện ngắn. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ áp dụng khi tình trạng van còn tương đối tốt, chỉ hẹp van đơn thuần hoặc kết hợp hở nhẹ. Nếu bệnh nhân đến muộn, van tổn thương nặng nề thì chỉ có phương pháp duy nhất là phẫu thuật thay van hai lá nhân tạo.
Với tổn thương hở van hai lá hoặc kết hợp hở-hẹp van hai lá: Trong trường hợp này, điều trị duy nhất là phẫu thuật sửa hoặc thay van hai lá với tuần hoàn ngoài cơ thể.
Chỉ định sửa hay thay van không chỉ phụ thuộc vào mức độ thương tổn của van mà còn phụ thuộc vào các yêu tố khác như tuổi, cơ sở vật chất, kinh tế người bệnh, khả năng kinh nghiệm của thầy thuốc… Tuy nhiên, khi lá van dày, vôi hóa nhiều, dây chằng lá van co rút nặng thì phải thay van nhân tạo, nếu lá van còn mềm mại, dây chằng chưa thương tổn nặng thì nên sửa van.
Việc phòng bệnh thấp tim là vô cùng quan trọng bởi vì liên cầu khuẩn có thể khu trú ở đường hô hấp trên hoặc trên da và dễ lây nhiễm. Bệnh hay xảy ra khi người bệnh sống trong môi trường ẩm thấp, thiếu vệ sinh, điều kiện dinh dưỡng không đảm bảo…
Nếu bệnh nhân có các dấu hiệu nhiễm khuẩn đường hô hấp trên do liên cầu khuẩn tan máu β nhóm A như: sốt, viêm họng, viêm amydal, sưng hạch bạch huyết dưới hàm, nuốt đau hoặc phát hiện trẻ có dấu hiệu đau khớp thì cần đưa ngay trẻ đến khám tại các cơ sở y tế.
Cần chú ý biện pháp tuyên truyền để người dân biết lợi ích của việc điều trị viêm họng, nhất là cho trẻ cũng như hậu quả tai hại của bệnh van tim do thấp, phổ biến giáo dục sức khỏe cho trẻ giữ vệ sinh, giữ ấm tránh nhiễm lạnh, nâng cao thể chất, cải tạo môi trường sống, nâng cao chất lượng sống, thoát nghèo là một yếu tố rất quan trọng.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh