Sử dụng thuốc tiêu sợi huyết trong nhồi máu cơ tim cấp

Nội dung

1. Bằng chứng lâm sàng:

  • Một nghiên cứu phân tích gộp năm 1994 từ các nhóm thử nghiệm liệu pháp tiêu sợi huyết cho thấy rằng lợi ích giảm tỷ lệ tử vong tuyệt đối từ liệu pháp tiêu sợi huyết khối ở thời điểm 5 tuần là 3% đối với những bệnh nhân được điều trị trong vòng 6h kể từ khi khởi phát triệu chứng; 2 % đối với những bệnh nhân được điều trị trong vòng 12h và 1% cho những bệnh nhân trong vòng 13 đến 18h. Hiệu quả  trong các thử nghiệm thuốc tiêu sợi huyết đã làm giảm khoảng 30% tỷ lệ tử vong ngắn hạn xuống giá trị từ 7 đến 10%.
  • Trong thử nghiệm GISSI-1 (The first Gruppo Italiano per lo Studio della Streptochinasi nell’Infarto) và ISIS-2 (The second International Study of Infarct Survival), lợi ích sinh tồn vẫn tồn tại sau 10 năm dùng alteplase.  Lợi ích khi dùng alteplase là lớn nhất ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi và ở những bệnh nhân nhồi máu thành trước. Tuy nhiên, lợi ích cải thiện tỷ lệ tử vong cũng nhận thấy ở hầu hết các nhóm nhỏ, bao gồm cả những bệnh nhân lớn tuổi, tăng huyết áp hoặc tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc phẫu thuật bắc cầu chủ vành.
  • Một đánh giá của 38 thử nghiệm liên quan đến trị liệu bằng reteplase, tenecteplase và lanoteplase cho thấy hiệu quả và độ an toàn tương tự như alteplase và các thuốc này thuận tiện hơn khi sử dụng vì sử dụng bolus. Tenecteplase (TNK) là loại tiêu sợi huyết dễ sử dụng nhất (bolus đơn) và trong thử nghiệm ASSENT-2 ( Assessment of the Safety of a New Thrombolytic) có liên quan đến tỷ lệ biến chứng chảy máu (ngoài não) thấp hơn so với alteplase. Ngược lại, lanoteplase có liên quan đến sự gia tăng đột quỵ xuất huyết ở thử nghiệm InTIME-II (1,12% so với 0,64%) đã hạn chế sử dụng lâm sàng và trong GUSTO III (Global Utilization of Streptokinase and Tissue Plasminogen Activator for Occluded Coronary Arteries), reteplase có hiệu quả kém hơn alteplase. Mặc dù điều trị kết hợp với một nửa liều điều trị tiêu sợi huyết và thuốc ức chế glycoprotein IIb / IIIa có liên quan đến các biến cố thiếu máu cục bộ ít hơn so với điều trị tiêu sợi huyết đơn thuần trong GUSTO V và ASSENT-3 nhưng không làm giảm nguy cơ tử vong mà còn tăng nguy cơ chảy máu, đặc biệt ở người lớn tuổi.

2. Liều dùng:

– Alteplase (Actilyse 50Mg) : Liều khuyến cáo tổng liều dựa trên cân nặng bệnh nhân (không quá 100mg).

  • Bệnh nhân ≤ 67 kg: 15 mg bolus trong 1-2 phút, sau đó 0,75 mg/kg (tối đa 50 mg) trong 30 phút, sau đó 0,5 mg/kg (tối đa 35 mg) trong 60 phút.
    • Ví dụ: Bệnh nhân 50 kg, y lệnh như sau:
      • Actilyse 50Mg 01 lọ pha đủ 50ml Natriclorid 0,9%.
      • Bolus 15 ml
      • Truyền BTĐ 70 ml/h
      • Actilyse 50Mg 01 lọ pha đủ 50ml Natriclorid 0,9%.
      • Rút 25 ml, còn lại Truyền BTĐ 25 ml/h
  • Bệnh nhân > 67 kg: 15 mg bolus trong 1-2 phút, sau đó 50 mg trong 30 phút, sau đó 35 mg trong 60 phút.

– Reteplase: Liều reteplase dành cho người lớn bao gồm hai liều tĩnh mạch; mỗi liều bolus 10 đơn vị trong 2 phút; cách nhau 30 phút/ liều.

– Tenecteplase: Bolus 30-50 mg tĩnh mạch trong 5 giây tùy theo cân nặng của bệnh nhân:

  • <60 kg: 30 mg
  • 60 đến 69 kg: 35 mg
  • 70 đến 79 kg : 40 mg
  • 80 đến 89 kg: 45 mg
  • ≥  90 kg: 50 mg

– Streptokinase: 1,5 triệu đơn vị truyền tĩnh mạch trong 30- 60 phút.

  • Ví dụ: St-pase 1,5 triệu đơn vị pha đủ 50 ml Natriclorid 0,9%
  • Truyền BTĐ 50ml/h

– APSAC (anistreplase): 30 UI được truyền tĩnh mạch trong 2 – 5 phút.

return to top