- Ung thư phế quản phổi nguyên phát (UTPQPNP) hiện nay có tần suất đang tăng lên một cách đáng sợ.
- Là nguyên nhân gây tử vong do ung thư hàng đầu ở nam và hàng thứ 4 ở nữ. Bệnh nguyên chủ yếu là thuốc lá.
- Phát hiện thường muộn nên điều trị khó vì vậy tiên lượng luôn luôn nặng.
- Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Theo OMS ung thư phế quản phổi được phân thành những loại sau:
- Không xếp loại.
- Trong đó 4 loại đầu là thường gặp.
To: Không thấy u
Tx: U chỉ phát hiện sớm bằng tế bào ung thư trong chất tiết phế quản. TIS: ung thư biểu mô tại chỗ
T1: U có d ≤ 3cm, soi phế quản không thấy lan đến phế quản thuỳ.
T2: U có d > 3 cm hay u không kể kích thước hoặc lan đến màng phổi tạng hoặc có xẹp phổi hoặc có viêm phổi nghẽn, có lan đến phế quản thùy hay cách cựa phế quản ≥ 2cm. Xẹp phổi/viêm phổi nghẽn chỉ ở 1 phổi.
T3: U không kể kích thước xâm lấn thành ngực hay cơ hoành hay màng phổi trung thất hay màng ngoài tim (mà không tổn thương tim, mạch máu lớn, khí quản, thực quản, cột sống).
Hoặc u trong phế quản gốc cách cựa phế quản < 2cm.
T4: U không kể kích thước xâm lấn trung thất hay tim hay mạch máu lớn, khí quản, thực quản, cột sống, cựa phế quản.
Hoặc tràn dịch màng phổi.
No: Không có di căn đến hạch.
N1: Di căn đến hạch quanh phế quản hay rốn phổi.
N2: Di căn hạch trung thất cùng bên và cạnh cựa phế quản.
N3: Di căn hạch trung thất khác bên, hạch rốn phổi khác bên, hạch cơ thang hay thượng đòn cùng hay khác bên.
Mo:không di căn xa.
M1: Di căn xa như thượng thận, gan, xương, não.
Ho thường tăng lên về tần số và độ trầm trọng.
Ho ra máu: Lượng nhiều hay ít, chiếm tỉ lệ 50% trường hợp.
Viêm phế quản phổi do nghẽn:
Ran wheezing gợi ý nghẽn khu trú không hoàn toàn.
Khi có hội chứng xẹp phổi là khi phế quản bị hẹp hoàn toàn.
Có thể là tràn dịch thanh tơ huyết hay tràn máu, có thể do u lan trực tiếp hay do di căn, có khi do phản ứng của xẹp phổi.
Đau cố định và dai dẳng chứng tỏ ung thư di căn đến thành ngực, màng phổi hay trung thất.
Hạch có thể ở rốn phổi, trung thất, cơ thang, có thể diễn tiến âm thâm hay gây chèn ép, ăn mòn các phế quản, các mạch máu hay các đám rối thần kinh lân cận.
Hội chứng Pancoast Tobias:
Ung thư đỉnh phổi xâm lấn màng phổi đỉnh chèn ép các rễ dưới của đám rối thần kinh cánh tay, thần kinh giao cảm cổ. Hội chứng gồm đau vai, đau cánh tay kèm hội chứng CLAUDE BERNARD HORNER cùng bên (đồng tử co, sụp mí, hẹp khe mắt) có khi ăn mòn xương đòn.
- 3 cơ quan hay bị di căn nhất là:
- Các di căn khác như màng bụng, thượng thận, thận, ống tiêu hoá.
- Hội chứng hệ thống.
Các hội chứng này biến mất khi ung thư được cắt bỏ và tái phát khi di căn phát triển.
Tăng calci máu:
Hội chứng tiết ADH bất thường:
Hội chứng CUSHING:
Hội chứng carcinoide:
Vú lớn:
Rối loạn thần kinh cơ:
Ngón tay dùi trống:
Hội chứng PIERRE MARIE (hội chứng xương khớp phì đại do phổi):
Giảm miễn dịch tế bào không đặc hiệu:
Ung thư dạng biểu bì và ung thư tế bào nhỏ không biệt hoá thường ở rốn hay gần rốn, ung thư dạng tuyến và ung thư tế bào lớn thường ở xa rốn trong chủ mô.
Ung thư dạng biểu bì thường dưới dạng khối mờ tròn bờ không đều, không đồng chất, ở một bên, có thể hàng hóa, dế gây viêm phổi do nghẽn hay xẹp phổi.
Ung thư tế bào nhỏ không biệt hoá thường dưới dạng khối mờ, ít đồng chất, bờ không đều, có xu hướng lan ra xung quanh.
Ung thư dang tuyến thường dưới dạng khối tròn, đều, đậm, bờ rõ.
Ung thư tiểu phế quản phế nang thường dưới dạng khối tròn đơn độc hoặc nốt thâm nhiễm lan rộng một hay hai phổi.
Ung thư tế bào lớn thường dưới dạng khối tròn, đậm, bờ khá rõ.
Các tổn thương ung thư thường không bao giờ bị calci hoá.
Giúp xác định chính xác các tính chất của khối mờ bất thường trong nhu mô phổi, và ở trung thất, giúp sinh thiết dưới sự hướng dẫn của CT SCANNER để chẩn đoán mô học.
Soi phế quản bằng ống soi mềm giúp chẩn đoán trực tiếp và thăm dò sự lan rộng của ung thư bằng cách chải rữa phế quản và sinh thiết tổn thương hay sinh thiết có hệ thống các phế quản.
Khảo sát tế bào trong đàm cho kết quả dương tính trên 70%, dương tính giả ít, phát hiện được tế bào ung thư ngay khi hình ảnh X quang bình thường. Do đó tế bào học trong đàm là một xét nghiệm sàng lọc ở nhóm có nguy cơ.
Hạch ngoại vi dễ dàng được sinh thiết, sinh thiết hạch trung thất được tiến hành ở phòng mổ do bác sĩ chuyên khoa làm.
Chọc hút xuyên thành bằng kim nhỏ
Áp dụng cho những ung thư ở ngoại biên, khó soi phế quản. Có thể chọc dưới sự theo dõi trên màng huỳnh quang. Dễ gây tràn khi màng phổi.
Sinh thiết màng phổi phải tiến hành ở môi trường ngoại khoa. Có thể khảo sát tế bào học dịch màng phổi.
Ở bệnh nhân có chỉ định mổ. Sinh thiết và xét nghiệm giải phẩu bệnh tức thì và quyết định mổ tiếp tục hay không.
Phải làm siêu âm và chụp cắt lớp tỉ trọng mới kết luận được một cách chắt chắn.
Chủ yếu là đề xét chỉ định mổ và thăm dò khả năng phổi lành.
Nếu VEMS ≥ 1/2 bình thường và paCO2 bình thường 40 ± 3 mmHg thì không cần thăm dò thêm.
Chỉ xác định được là có khối u, giúp theo dõi diễn tiến sau điều trị.
Chẩn đoán khó khăn trong những trường hợp sau: BK đàm âm tính và không tìm thấy tế bào ung thư trong đàm trong 3 ngày liền, trên phim X.quang có khối mờ hình tròn, đường kính 2-3 cm bờ rõ hoặc một đám mờ. Gặp các trường hợp này nên điều trị thử lao một cách tích cực, đồng thời tìm mọi cách phát hiện tế bào ung thư. Sau một tháng chậm nhất là hai tháng nếu hình ảnh trên phim rõ nét hơn là ung thư.
Sau một thời gian điều trị viêm phổi, nếu sức khoẻ không trở lại bình thường, các tổn thương trên phim X.quang không xoá hết, lắng máu vẫn cao... cần nghĩ đến ung thư phế quản phổi.
Về mặt điều trị người ta chia ung thư phế quản phổi ra làm 2 nhóm chính.
Có thời gian nhân đôi 100-200 ngày, gồm 3 loại: ung thư dạng biểu bì, ung thư dạng tuyến, ung thư tế bào lớn.
Phẩu thuật là phương pháp hữu hiệu nhất, áp dụng cho các giai đoạn ung thư ẩn, giai đoạn 1 và giai đoạn 2 và một số trường hợp chọn lọc như T3, No, Mo hay T1, N2, Mo.
Kết quả:
Ung thư ẩn: Sống sót sau 5 năm khoảng 60%. Theo dõi kỹ vì dễ bị tái phát khoảng 5%/năm/người.
Ung thư nốt đơn độc: Mổ cắt bỏ thuỳ phổi. Tiên lượng tuỳ theo kích thước khối u, theo hạch vùng và theo sự biệt hoá của tế bào k.
Sống sót sau 5 năm khoảng 40-60% nếu kích thước < 3cm và không có hạch vùng. Sống sót sau 5 năm khoảng 20% đến < 40% nếu kích thước > 3cm và có hạch vùng.
Không phẩu thuật được dùng đa hoá trị liệu và xạ trị liệu nếu không có chống chỉ định.
Xạ trị liệu kết quả không tốt lắm, đôi khi không hơn bệnh nhân không được xạ trị liệu.
Đa hoá trị liệu:
Bảng: Kết quả một số đa hoá trị liệu.
Bảng: Tỷ lệ sống sót sau 5 năm.
Đây là loại ung thư phát triển nhanh, di căn sớm và nhiều ngay khi bệnh có vẻ khu trú, do đó mọi cố gắng cắt bỏ đều vô hiệu, nên đa hoá trị liệu và xạ trị liệu là chính.
Thuốc ức chế topoisomerase I bao gồm irinotecan và topotecan. Phối hợp irinotecan hay topotecan với ciplastin cho kết quả tốt, tuy nhiên có một số tác giả phối hợp etoposide với cisplatin hay với carboplatin
Xạ trị được dùng trước hoặc sau hoá trị liệu bởi bác sĩ chuyên khoa.
Điều trị triệu chứng và điều trị hỗ trợ cho cả hai loại:
Tuyên truyền tác hại của thuốc lá trên các phương tiện truyền thông đại chúng để vận động mọi người bỏ thuốc lá
Chống ô nhiễm môi trường trong nhà, môi trường nghề nghiệp.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh