PHỤ LỤC 2: GIỚI THIỆU CÁC LOẠI BẪY
Bẫy GAT
Giới thiệu về bẫy GAT
Bẫy GAT hay còn gọi là bẫy Gravid Aedes Trap được phát triển bởi Dr. A. E. Eiras từ Đại học Federal de Minas Gerais, Belo Horizonte, Brazil và Dr. S. A. Ritchie từ đại học James Cook, Caims, Queensland, Australia. Ngày nay, bẫy GAT được sản xuất và phân phối độc quyền bởi công ty Biogents - Đức.
Bẫy GAT đã được sử dụng trong các chương trình giám sát quần thể muỗi thường quy nhằm đánh giá các quần thể muỗi Aedes ở một số quốc gia.
Bẫy GAT dựa vào đặc tính sinh học của muỗi cái Aedes để thu hút chúng. Muỗi Aedes thường tìm những nơi tối, có nước sạch để sinh sản. Bẫy GAT có khoang chứa nước ở phần đáy. Khi muỗi cái lọt qua ống hình trụ sẽ bay xuống vùng chứa nước, chúng sẽ tiếp xúc với màn tẩm hóa chất và chết.
Thường đặt bẫy GAT ở những nơi có ánh sáng yếu, thường xuyên tập trung đông người như nhà bếp, phòng ăn, phòng khách hoặc phòng ngủ. Nếu nhà có trẻ em hoặc súc vật, đặt nơi bẫy không bị làm đổ nước. Ví dụ: dưới gầm giường, ghế... hoặc đặt dưới hiên nhà.
Ưu điểm của bẫy GAT đó là không cần dùng các chất dẫn dụ như đá khô CO2 hay các chất dẫn dụ khác, có thể đánh giá khách quan mà không phụ thuộc vào kỹ năng của nhân viên bắt muỗi.
Nhược điểm của bẫy GAT là không có kết quả ngay khi đặt bẫy mà phải có thời gian chờ đợi cho muỗi vào tối thiểu sau 1 ngày.
Cấu tạo của bẫy GAT
01 Xô màu đen có lỗ thoát nước.
01 Ống hình trụ trong suốt.
01 Ống hình trụ màu đen.
01 Lưới tẩm hóa chất và túi rút cố định lưới.
01 Vành cố định túi rút.
Bẫy GAT
Bẫy Biogents
Giới thiệu về Bẫy Biogents
Bẫy BIOGENTS sử dụng để thu thập mẫu muỗi Aedes, Culex và Anopheles tại thực địa nhằm đánh giá mật độ quần thể muỗi đáp ứng công tác phòng và chống dịch tại nơi xảy ra ổ dịch SXHD/Zika/Chikungunya; các hộ gia đình trong giám sát, đánh giá quần thể muỗi tại các điểm điều tra, nghiên cứu.
Cấu tạo Bẫy Biogents
Bẫy Biogents được thiết kế hình trụ, bẫy gồm có các bộ phận như sau:
Vỏ bẫy: hình trụ cao 35cm, đường kính đáy 40cm.
Nắp bẫy: có mặt lưới lỗ nhỏ li ti đường kính nắp 40 cm, ở giữa trống đường kính 12 cm dùng để gắn ống phễu bẫy, bên cạnh có lỗ trống đường kính 3 cm để gắn bã mồi Biogents.
Quạt hút: dùng điện 12V.
Ống phễu: một đầu được bọc bởi lớp vải lưới dạng hình phễu bên trong và bên ngoài được bọc bởi túi vải lưới
Dây cắm biến thế điện 12V (sử dụng điện 220V)
Bẫy Biogents
Bẫy đèn CDC
Giới thiệu Bẫy đèn CDC
Sử dụng bẫy đèn để bắt muỗi là dựa vào đặc tính nhiều loài muỗi về đêm bị thu hút bởi một số nguồn ánh sáng khác nhau. Đây là một phương pháp thu mẫu rất hiệu quả đối với những loài muỗi có đặc điểm hướng quang dương. Mục đích bắt muỗi bằng bẫy đèn là:
Cung cách dẫn liệu về thành phần loài, một số chỉ số (mật độ)...để xác định phân bố và đánh giá hiệu quả của các phương pháp phòng chống véc tơ.
Cung cấp dẫn liệu để đánh giá biến động theo không gian và thời gian về kích thước quần thể các loài muỗi.
Cấu tạo Bẫy đèn CDC:
Bẫy đèn: bẫy đèn bắt muỗi có nhiều loại khác nhau: loại dùng nguồn điện 220V; loại khác dùng ắc quy hoặc dùng pin khô thích hợp để bắt muỗi ở những vùng xa xôi, hẻo lánh chưa có điện lưới... cấu tạo của các loại bẫy đèn gồm 5 bộ phận chính: chao bẫy, thân bẫy, nguồn sáng, cánh quạt cùng mô tơ, và lồng đựng muỗi.
Bẫy đèn CDC
PHỤ LỤC 3: ĐẶC ĐIỂM NƠI SINH SẢN THƯỜNG GẶP CỦA MUỖI
Bất kỳ một dụng cụ chứa nước nào có thể tích trữ nước đến 7 ngày ở trong và ngoài nhà đều có thể là nơi sinh sản của muỗi truyền bệnh, nắm chắc được đặc điểm nơi sinh sản của muỗi thường gặp sẽ giúp cho điều tra viên xác định, phân loại chính xác và diệt ổ bọ gậy nguồn có hiệu quả.
Nơi sinh sản chủ yếu trong nhà
Chum, vại dùng để chứa nước.
Bát kê chân tủ đựng thức ăn trong bếp.
Bể chứa nước trong nhà tắm, nhà vệ sinh.
Bể chứa nước không có nắp đậy.
Lọ hoa.
Chậu cây cảnh.
Chai, lọ.
Khay nước của tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ.
Thùng phuy chứa nước.
Dụng cụ chứa nước bằng nhựa.
Giếng nước không sâu.
Quạt phun hơi nước.
Nơi sinh sản chủ yếu của muỗi ở ngoài nhà
Hốc cây, gốc tre, nứa.
Kẽ lá (dừa, chuối, bẹ khoai).
Chum, vại chứa nước.
Chai, lọ, thùng nhựa hỏng, vỏ đồ hộp thải.
Lốp xe hỏng.
Thùng phuy nước, bể nước ngoài trời.
Máng thoát nước trên mái nhà.
Đồ hộp phế thải, vỏ dừa và các vỏ khô khác.
Giếng nước không sâu.
Phát hiện, xử lý nguồn phát sinh bọ gây và nơi trú đậu của muỗi trưởng thành
Khi xác định được nguồn phát sinh bọ gậy thường gặp (ổ bọ gậy nguồn) tùy theo đặc thù sinh hoạt mỗi địa phương, cách xử lý khả thi, đối tượng xử lý và người chịu trách nhiệm chỉ đạo thực hiện để có thể thanh toán triệt để nơi muỗi đẻ.
PHỤ LỤC 4: KỸ THUẬT THU THẬP ĐỘNG VẬT GẶM NHẤM
Cần phải thu thập gặm nhấm còn sống thì mới thu thập được các loài chân đốt ký sinh trên chúng
Dụng cụ thu thập: Bẫy lồng không gập được hoặc bẫy lồng gập được. Nguyên liệu làm bẫy là lưới kim loại, lưới mắt cáo, mắt lưới hình 6 cạnh, kích thước mỗi cạnh khoảng 1cm. Hai loại bẫy này cùng tác dụng thu thập gặm nhấm như nhau.
Số bẫy đặt tại mỗi điểm không quá 100 bẫy/đêm*3 đêm/1đợt giám sát. Bẫy đặt cố định, rải rác trong các kho, bãi, những nơi khuất và có khả năng động vật gặm nhấm qua lại kiếm ăn. Sử dụng mồi kép: gồm ngũ cốc và chất đạm (thịt, cá). Ví dụ: 1 lát củ khoai lang kèm 1 miếng thịt nướng hay cá khô sau đó móc vào bẫy.
Thời gian đặt bẫy: Có thể đặt cả ngày lẫn đêm, sáng và chiều phải đi thăm bẫy; bẫy nào có chuột/sóc cầm về hay bắt cho vào túi đem về, bẫy để lại chỗ cũ và thay mồi mới.
Nếu chuột chết phải bỏ ngay chuột vào túi vải và buộc kín mang về và thu thập ngay ngoại ký sinh; nếu chưa có điều kiện thu thập ngay ngoại ký sinh thì cho cả túi vải có chuột, sóc vào túi nilon kín và bỏ ether hay clorofor vào cho các ngoại ký sinh mê không bò ra khỏi túi rồi thu thập ngoại ký sinh sau, nhưng không quá 24 giờ.
Định loại động vật gặm nhấm theo tài liệu Đặng Huy Huỳnh, Cao Văn Sung, Lê Xuân Cảnh, Phạm Trọng Ánh, Nguyễn Xuân Đặng, Hoàng Minh Khiên, Nguyễn Minh Tâm, 2008. Lớp Thú - Mammalia: Primates, Carnivora, Artiodactyla, Perissodactyla, Rodentia. Động vật chí Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, Tập 25, 362tr.
Thu thập bọ chét ở chuột |
Thu thập và bảo quản mẫu bọ chét vào tuýp chứa cồn 70° |
PHỤ LỤC 5: HƯỚNG DẪN ĐỊNH LOẠI MỘT SỐ LOÀI CHUỘT CHÍNH TRUYỀN DỊCH HẠCH
Chuột cống (tên la tinh: Rattus Norvegicus)
Đặc điểm bên ngoài: Cỡ lớn (trung bình 200 - 500g, dài 18 - 25 cm), tai ngắn hình trứng, đuôi ngắn hơn thân (80%), mõm ngắn và tù. Bộ lông thô, mặt lưng nâu xám, gốc lông xám thẫm, chóp lông nâu, giữa lưng có nhiều lông dài đen ánh kim, bụng xám nhạt; bàn chân trước và chân sau trắng; đuôi 2 màu không rõ ràng, trên thẫm, dưới nhạt hơn. Có thể gặp chuột cống bạch tạng hoặc hắc tạng. Chuột có 12 vú: 3 + 3.
Sinh sản: Chuột cống đẻ quanh năm. Thời gian mang phôi của chuột 20 ngày, đẻ lứa đầu ở 3 - 4 tháng tuổi, lứa thứ 2: 4 - 5 tháng và lứa thứ 3: 5 - 6 tháng tuổi. Chuột có độ mắn đẻ 0,33, cao nhất vào tháng 5 - 7 và thấp nhất vào tháng 11 - 1 năm sau, và có khả năng đẻ 5 - 6 lứa với tổng số con trung bình 40 cho một đời cá thể mẹ.
Tập tính: Chuột cống hoạt động ban đêm. Thời gian hoạt động 5 - 8 giờ/đêm, từ lúc chập tối đến rạng sáng, nhưng cường độ cao nhất từ 20 - 22 giờ và 4 - 6 giờ sáng. Chuột sống thành tập đoàn. Mỗi hang gồm cả gia đình với vùng lãnh thổ riêng, 4 tư thế chống chọi nhau của chuột gồm có hàng phục, súc sườn, giữ thế và mặt đối mặt. Chuột đi lại chậm chạp.
Chuột nhà (tên la tinh: Rattus flavipectus)
Đặc điểm bên ngoài: cỡ trung bình. Đuôi dài hơn thân. Tai dài, gập lại phủ mắt. Bộ lông mềm, có xen lẫn lông dài ở lưng. Mặt lưng màu nâu thẫm, dọc sống lưng có lẫn nhiều lông dài đen, nên thẫm hơn. Mặt bụng xám nhạt, hơi vàng đất thó ở vùng ngực, ở một số cá thể có màu trắng. Ở mặt bụng, màu sắc thay đổi theo mùa và tuổi; xám bẩn hoặc vàng nhạt vào các tháng 5 - 6; vàng tro vào tháng 3 - 4 và con non. Đuôi đồng màu nâu thẫm. Giữa mu bàn chân có vệt nâu thẫm. Bàn chân sau hung nhạt. Bộ lông ở con non mềm, xám thẫm. Đôi khi bẫy được chuột hắc tạng hoặc bạch tạng. Chuột có 10 vú (3+2).
Phân bố: Ở Việt Nam loài này được ghi nhận ở các tỉnh phía bắc. Sau 1975, có gặp chuột này ở Tây Nguyên và miền Trung.
Nơi ở: Chuột nhà sống ở khu dân cư đô thị và vùng nông thôn. Chuột thích sống ở nơi cao ráo, trong các khe tường, lỗ, hốc cây, trong kèo cột nhà tranh, trên gác nhà. Có thể bẫy được chuột trong nhà, vườn gần nhà và ở đồng ruộng gần nhà. Chuột có thể đào hang dưới đất hoặc làm tổ trong kèo cột nhà tranh, trong các kẽ tường nứt,.... Hang dưới đất có 2 - 3 ngách.
Tập tính: Chuột nhà hoạt động chủ yếu ban đêm, đôi khi kiếm ăn cả ban ngày ở những nơi vắng vẻ. Chuột hoạt động trong nhà, ngoài vườn gần nhà và có thể di chuyển ra bìa rừng, nương rẫy gần nhà. Chuột hoạt động mỗi ngày khoảng 3-8 giờ, mạnh nhất sau khi trời tối, nửa đêm về sáng. Chuột leo trèo giỏi.
Thức ăn: Chuột ăn tạp, thực vật và động vật. Có thể bẫy được chuột bằng cá, của, lạc, quẩy, dưa chuột,...
Sinh sản: Chuột nhà đẻ quanh năm. Chuột non và chuột cái mang phôi đều bắt được hàng tháng ở Hà Nội. Chuột đẻ 3 - 4 lứa/năm, trung bình 3 - 12 con/lứa và tối đa 43 con, thay đổi theo mùa, cao vào các tháng 2 - 4 và 11 - 1.
Chuột mẹ chăm sóc con cẩn thận. Chuột dùng lá cây, giẻ, rác lót tổ để đẻ. Khi đẻ, chuột mẹ luôn ở cùng con, trừ lúc đi kiếm ăn. Chuột con nặng trên 22g có thể đi kiếm ăn cùng với mẹ.
Chuột nhà gây hại lớn cho nông nghiệp và mang nhiều loài ký sinh trùng gây bệnh cho người và vật nuôi, đặc biệt bệnh dịch hạch.
Chuột lắt (tên la tinh: Rattus Exulans)
Đặc điểm bên ngoài: cỡ nhỏ (25 - 80g). Đuôi dài hơn thân. Bộ lông mỏng, có xen lẫn lông gai. Mặt lưng màu nâu thẫm; bụng màu nhạt hơn. Đuôi đồng màu nâu thẫm. Chuột có 8 vú (2 + 2). Sọ nhỏ. Gờ xương trán rõ, khỏe. Xương gian đỉnh lớn. Hộp sọ khá rộng. Xương mũi dài hơn 50% dài sọ. Bầu nhĩ to và nhô cao, vượt 18% chiều dài chẩm mũi. Lố khẩu cái dài bằng chiều dài bầu nhĩ. Mấu vành xương hàm dưới phát triển. Răng cửa hàm trên hẹp, nhẵn, có màu vàng.
Phân bố:
Việt Nam: chủ yếu từ Vĩnh Linh trở vào Nam, đã ghi nhận tại một số tỉnh miền Bắc: Hà Nội, Lào Cai, Lạng Sơn.
Thế giới: Mianma, Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia, Philippine, đến Niu Zilan và một số nước khác.
Nơi ở: Chuột lắt sống ở các khu dân cư đô thị và nông thôn; ở thị trấn và làng xóm ven biển. Có thể bẫy được chuột trong nhà, vườn. Ở Thái Lan, có thể thấy chuột ở ruộng lúa; ở Malayxia, loài này chiếm 2% chuột bắt được ở nhà; trái lại, chuột rất nhiều ở đồng cỏ, bụi rậm. Cũng có thể bẫy được chuột ở bãi cỏ, bụi rậm, rừng thưa và vườn gần nhà.
Tập tính: Chuột lắt rất hoạt động, leo trèo nhanh, thích sống nơi cao ráo, trong kèo cột nhà tranh hoặc trên gác nhà. Chuột có thể làm tổ đơn giản trên cao, thường trong nhà.
Thức ăn: chủ yếu là thực vật. Tuy nhiên, chuột cũng ăn động vật như mối và ốc sên.
Sinh sản: Chuột lắt có thể đẻ quanh năm, chuột đẻ 1 - 8 con, trung bình 4,6 con/lứa. Chuột mẹ có thể mang phôi khoảng 20 ngày và đẻ 3 lứa. Chuột thành thục sinh dục sớm, và chuột đực hoạt động sinh dục sớm hơn chuột cái. Chuột cái mang thai đầu tiên khi trọng lượng cơ thể 22,9g với chiều dài thân, 100mm. Tuổi thọ của chuột tối đa 9,8 tháng.
Vai trò: Chuột lắt là tác nhân truyền bệnh dịch hạch cho người. Dịch hạch xảy ra từ 1908 đến 1914 ở Phan Rang, Phan Ri và Phan Thiết làm chết 5.000 người. Ngoài ra, chuột còn gây bệnh khác như rickettsia. Ký sinh được xác định ở chuột lắt gồm có Xenopsylla cheopis , X. astia, ...
Chuột nhắt nhà (tên la tinh: Mus musculus)
Đặc điểm bên ngoài: Cỡ bé. Đuôi thường dài hơn thân. Mõm ngắn. Vành tai lớn dài. Bộ lông mềm. Mặt lưng nâu thẫm; mặt bụng sáng xám. Đuôi hoàn toàn tối nhạt. Bàn chân ngắn, mặt trên trắng đục, với các ngón chân trắng. Theo các số liệu hiện có chuột nhắt Việt Nam và nói chung chuột nhắt châu Á có kích thước nhỏ hơn chuột nhắt châu Âu và châu Mỹ
Nơi ở: Chuột nhắt nhà sống phổ biến trong nhà và đồng ruộng. Chuột có thể ẩn nấp trong các khe tường, khe tủ, đống gỗ, đống rơm rạ, hoặc có thể đào hang ở bờ ruộng hoặc sử dụng hang của loài khác làm nơi ở. Chuột thích ở nơi cao ráo, thoáng. Hang chuột nông và có vài cửa. Phổ biến ở khu vực dân cư nông thôn và đô thị.
Tập tính: Chuột hoạt động kiếm ăn ban đêm. Nơi vắng vẻ, cũng có thể gặp chuột tìm kiếm thức ăn ban ngày. Chuột hoạt động nhanh nhẹn.
Thức ăn: Chuột chủ yếu ăn thực vật; ở đồng ruộng, chuột còn ăn hạt cỏ, côn trùng. Chuột nhắt nhà cắn phá đồ dùng gia đình, gây hại lương thực, thực phẩm trong các kho tàng.
Sinh sản: Chuột nhắt nhà sinh sản quanh năm. Chuột mang thai 18 - 21 ngày, đẻ 4 - 8 con/lần và 6 - 8 lần/năm. Con non sau 35 - 42 ngày đã trưởng thành. Chuột sống khoảng 1,5 năm.
Chuột chù (tên la tinh: Suncus murinus)
Là loài thú ăn côn trùng, sâu bọ là chính, mõm nhọn, tai nhỏ, mắt nhỏ, màu lông xám tro hơi đậm, chỉ sống trên mặt đất, hang hốc, không leo trèo, đặc biệt có mùi hôi là chất tiết của tuyến cạnh sườn.
Chuột chù (hay còn gọi là chuột xạ) ở Việt Nam có khoảng 3 giống, trong đó có giống Suncus. Có loài Suncus mirinus là phổ biến nhất, phân bố rộng, là vật chủ quan trọng mang bệnh dịch hạch và truyền bệnh cho người qua bọ chét X.cheopis sống ký sinh trên chúng.
Kích thước cơ thể:
Dài thân và đuôi: 181 - 236mm
Dài đuôi: 60 - 81mm
Dài bàn chân sau: 18 - 29mm
Dài tai: 12 - 23mm
Phân bố và nơi ở: S. murinus phân bố toàn Việt Nam, từ rừng đến đồng bằng đến ven biển, từ nông thôn đến thành thị. Chúng là loại thích sống bám vào nhà ở và thích sống nơi ẩm thấp nhất, tối tăm nhất: gần lu vại chứa nước, dưới đống cây khô, trong đống gạch đá xà bần...
Chuột chù chỉ hoạt động về đêm vì chúng rất sợ ánh sáng. Chúng có tuyến hôi và thêm vào đó rất hung dữ nên ít bị kẻ thù ăn thịt. Chuột làm ổ trong hang hốc tự nhiên, có lót ổ nhưng sơ sài.
Đẻ 2 - 4 con mỗi lứa, thường mang 2 thai; mang thai quanh năm.
PHỤ LỤC 6: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DIỆT CHỦ ĐỘNG VẬT CHỦ VÀ VÉC TƠ TRUYỀN BỆNH DỊCH HẠCH
Tiến hành phòng chống chủ động bệnh Dịch hạch, ta vẫn phải thực hiện theo nguyên tắc phun diệt bọ chét trước, sau đó mới diệt chuột.
Phun diệt bọ chét
Phun tồn lưu
Cách phun: Phun hóa chất tồn lưu xung quanh nơi có chuột chết tự nhiên, trên đường chuột chạy, hang, tổ chuột kể cả trong mái tranh, vách tranh..., phun bao vây ổ dịch bán kính 200m. Khi dịch lớn xảy ra phải phun diệt vùng có dịch và vùng có nguy cơ lây lan
Rắc bột
Cách rắc: Rắc thành từng đám trên vùng chuột chạy, mỗi đám thuốc với kích thước là 15 x 30 x 0,5 cm, cách nhau 5 - 10 mét và rắc thuốc vào từng hang, tổ chuột.
Hóa chất
Hóa chất được sử dụng các loại được Bộ Y tế hoặc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho phép sử dụng.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh