Hố dưới đòn (infraclavicular fossa) hay còn gọi là tam giác delta-ngực (deltopectoral triangle) là một ấn lõm có thể nhìn thấy ở dưới xương đòn (clavicle), nơi có thể tìm thấy TM đầu (cephalic vein) và nhánh delta (deltoid branch) của động mạch ngực-cùng vai (thoraco-acromial artery). Hố này liên tiếp ở dưới với rãnh delta-ngực (deltopectoral groove), một rãnh xuất hiện giữa chỗ bám tận của cơ delta và cơ ngực lớn vào xương cánh tay.
Giới hạn của hố dưới đòn
- Bờ trên là xương đòn, tại chỗ nối giữa phần lổi bên trong và phần lõm bên ngoài của xương;
- Bờ ngoài là bờ trước phần đòn (clavicular part) của cơ delta (deltoid), nơi nó bám nguyên ủy vào xương đòn. Tại khoảng 2.5cm dưới xương đòn, bờ trước của cơ delta phủ đỉnh của mỏm quạ (coracoid process) và đây là một mốc xương có thể sờ thấy được.
- Bờ trong là bờ trên đầu đòn (clavicular head) của cơ ngực lớn (pectoralis major)
- Phủ lên hố là mạc ngực (pectoral fascia), một mạc mỏng phủ cơ ngực lớn. Mạc này (i) bám vào xương ức (sternum) và liên tiếp với mạc của bao cơ thẳng bụng (rectus abdominis) ở phía trong; (ii) hòa vào màng ngoài xương của xương đòn và bờ trước của bao khớp ức-đòn (sternoclavicular joint) ở phía trên; và (iii) liên tiếp với mạc bọc cơ delta ở phía bên.
Các cấu trúc liên quan tới hố dưới đòn
- Nhánh delta của động mạch ngực-cùng vai: thường tách ra cùng với nhánh cùng vai (acromial branch), nó bắt chéo cơ ngực bé để chạy cùng tĩnh mạch đầu trong hố dưới đòn và rãnh delta-ngực để tách ra các nhánh cấp máu cho cơ delta và cơ ngực lớn.
- Tĩnh mạch đầu đi lên từ rãnh delta-ngực để tới hố dưới đòn. Tại đây, nó chạy sau hơn đầu đòn của cơ ngực lớn rồi chọc xuyên qua mạc đòn-ngực, bắt chéo động mạch nách (axillary artery) để đổ về tĩnh mạch nách (axillary vein) ở ngay dưới mức xương đòn. Cũng tại hố dưới đòn, nó có thể tách ra một nhánh chạy trước xương đòn để nối với tĩnh mạch cảnh ngoài (external jugular vein).
“Hố dưới đòn” trên lâm sàng
Các nhà lâm sàng quan niệm “hố dưới đòn” là một phần của hố nách, nơi thực hiện thủ thuật phong bế đám rối cánh tay (brachial plexus) trong phẫu thuật các phần của chi trên từ khuỷu trở xuống hoặc can thiệp vào các tĩnh mạch trung ương theo đường tĩnh mạch nách hoặc tĩnh mạch dưới đòn (subclavian vein). Phần khoang rỗng của hố nách này được giới hạn bởi
(i) phía trước là cơ ngực lớn và cơ ngực bé (pectoralis minor),
(ii) phía trong là các xương sườn (rib),
(iii) phía trên là xương đòn và mỏm quạ (mốc để xác định vị trí trên bề mặt để thực hiện thủ thuật), và
(iv) phía ngoài là xương cánh tay (humerus).
Đây là nơi nằm của phần trên động mạch nách, tĩnh mạch nách và các bó của đám rối cánh tay có tên gọi theo vị trí so với động mạch. Với thủ thuật phong bế đám rối cánh tay, phong bế dưới đòn (infraclavicular block) có ưu điểm hơn so với phong bế trên đòn (supraclavicular block) ở chỗ (i) nó phong bế hiệu quả hơn do ba bó của đám rối tập trung quanh động mạch nách (axillary fossa) trong khi các rễ, các thân và các ngành của đám rối nằm rải rác ở phần trên đòn; (ii) không gây tràn khí ngực (do làm thủng màng phổi ở đỉnh phổi), và (iii) không gây tổn thương ĐM dưới đòn và các nhánh của nó.
Có thể thấy, "hố dưới đòn giải phẫu" là vùng bề mặt của cơ thể, tương ứng với "hố dưới đòn lâm sàng", nơi có thể thực hiện các thủ thuật. Một chút khác biệt về quan điểm nhưng đều hướng tới mục tiêu chung trong thực hành lâm sàng!
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh