✴️ Tác dụng bất lợi là gì? Tác dụng không mong muốn do thuốc là gì?

Một tác dụng bất lợi là tác dụng có hại không mong muốn do thuốc hoặc can thiệp khác như phẫu thuật. Một tác dụng bất lợi có thể được gọi là "tác dụng phụ", khi được đánh giá là thứ yếu so với tác dụng chính hoặc tác dụng trị liệu. Nếu kết quả từ một liều lượng hoặc thủ tục không phù hợp hoặc không chính xác, đây được gọi là lỗi y tế và không phải là tác dụng phụ. Một số tác dụng bất lợi chỉ xảy ra khi bắt đầu, tăng cường hoặc ngừng điều trị.

Sử dụng thuốc hoặc can thiệp y tế nằm trong phạm vi chống chỉ định có thể làm tăng nguy cơ tác dụng bất lợi. Tác dụng phụ có thể gây ra các biến chứng của bệnh hoặc thủ thuật và ảnh hưởng tiêu cực đến tiên lượng điều trị. Chúng cũng có thể dẫn đến việc không tuân thủ chế độ điều trị.

 

Định nghĩa các thuật ngữ liên quan đến Cảnh giác Dược

1. Phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug Reaction - ADR)

Chương trình giám sát thuốc của tổ chức y tế thế giới đưa ra một định nghĩa về phản ứng có hại của thuốc như sau (WHO, 1972):

“ Phản ứng có hại của thuốc là phản ứng độc hại, không được định trước, xuất hiện ở liều thường dùng cho người để phòng bệnh, chẩn đoán hay chữa bệnh hoặc nhằm thay đổi một chức năng sinh lý. Định nghĩa này không bao gồm các trường hợp thất bại trị liệu, quá liều, lạm dụng thuốc, không tuân thủ và sai sót trong trị liệu ”

Phản ứng có hại của thuốc có thể dự đoán được (nghĩa là có thể kiểm soát, có thể tránh được hoặc không) hoặc không thể dự đoán được; nó có thể xảy ra thường xuyên hoặc không thường xuyên đối với một thuốc hay nhiều thuốc mà hậu quả của nó có thể nghiêm trọng hoặc không nghiêm trọng. Việc phát hiện nhanh những phản ứng có hại phụ thuộc vào thời gian xử trí và công tác tổ chức hệ thống Cảnh giác Dược.

 

2. Biến cố bất lợi (Adverse Event - AE)

AE là bất kỳ một biến cố nào xảy ra trong quá trình sử dụng thuốc nhưng không nhất thiết do phác đồ điều trị bằng thuốc gây ra, đồng nghĩa có thể không có mối liên hệ nhân quả giữa thuốc và biến cố. Như vậy biến cố bất lợi bao gồm những ảnh hưởng do thuốc gây ra (ADR) và do cách dùng thuốc (giảm liều, quá liều, ngừng điều trị ... )

 

3. Tác dụng phụ (TDP)

Là tác dụng không định trước của một chế phẩm thuốc xảy ra ở liều thường dùng ở người và liên quan đến đặc tính dược lý của thuốc. Như đã biết, tác dụng kháng cholinergic của các thuốc chống trầm cảm ba vòng có thể gây ra các tác dụng phụ như khô miệng, táo bón, bí tiểu tiện. Tuy nhiên, tác dụng phụ không hoàn toàn có hại mà trong một số trường hợp có thể có lợi và trở thành tác dụng điều trị chính. Giả sử một bệnh nhân bị trầm cảm và hội chứng ruột kích thích gây tiêu chảy. Lúc này, việc sử dụng thuốc chống trầm cảm ba vòng sẽ có lợi ích với tác dụng kháng cholinergic của thuốc ngoài tác dụng chống trầm cảm.

 

Chẩn đoán

Các triệu chứng xảy ra ngay sau khi dùng thuốc thường dễ dàng liên quan đến việc sử dụng thuốc. Tuy nhiên, để xác định các triệu chứng do sử dụng thuốc kéo dài, các triệu chứng này cần ở mức độ nghi ngờ đáng kể và thường phức tạp. Ngừng thuốc đôi khi cần thiết nhưng rất khó nếu thuốc là cần thiết và không có thuốc khác thay thể. Khi chứng minh được sự liên quan giữa thuốc và các triệu chứng là nghiêm trọng, nên cân nhắc lại việc sử dụng thuốc, ngoại trừ trường hợp phản ứng dị ứng nghiêm trọng.

 

Điều trị

  • Thay đổi liều dùng

  • Ngừng dùng thuốc nếu cần

  • Đổi sang một loại thuốc khác

Đối với ADR do dị ứng và đặc ứng, nên ngừng sử dùng thuốc và không nên dùng lại nữa. Cần phải chuyển sang một nhóm thuốc khác với ADR do dị ứng và đôi khi với các ADR liên quan đến liều.

 

Phòng ngừa

Để phòng ngừa tác dụng không mong muốn của thuốc cần hiểu rõ thuốc và các phản ứng tiềm ẩn của thuốc. Nên sử dụng phần mềm để kiểm tra các tương tác thuốc có thể xảy ra; nên kiểm tra lại bất cứ khi nào muốn thay đổi hoặc bổ sung thuốc. Phải thận trọng khi lựa chọn thuốc và liều dùng ban đầu khi dùng cho người già

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top