Vai trò của Iod trong thai kì

Nội dung

Iod trong thai kì rất cần thiết cho sự phát triển não bộ của thai nhi và giai đoạn đầu sau khi sinh. Trong 12 tuần đầu tiên của thai kỳ, thai nhi hoàn toàn phụ thuộc vào T4 của mẹ. Trong tuần thứ 10 đến 12 của thai kỳ, TSH của thai nhi xuất hiện, tuyến giáp của thai nhi có khả năng tập trung iod và tổng hợp iodothyronine. Tuy nhiên, lượng hormone được tổng hợp rất ít cho đến # 18 - 20 tuần.

 

Nhu cầu iod của người mẹ tăng lên trong thời kỳ mang thai và cho con bú.

Nhu cầu về iod tăng lên trong thời kỳ mang thai vì ít nhất ba yếu tố:

1) Tăng nhu cầu về T4 để duy trì quá trình trao đổi chất bình thường ở người mẹ.

2) Có sự vận chuyển của T4 và iod từ mẹ sang thai nhi

3) Sự gia tăng mất iod qua thận do tăng thanh thải thận của iod.

- Nhu cầu T4 để đạt bình giáp ở người phụ nữ suy giáp trong thai kì tăng 10-150%, trung bình #40-50%. Tương đương # 75-150mcgT4/ngày (tức là 50-100mcg Iod)

- Sự vận chuyển T4 từ mẹ qua thai nhi xảy ra trước khi tuyến giáp thai nhi hoạt động chức năng. Ước tính # 40% lượng T4 được đo trên dây rốn khi sinh có nguồn gốc từ mẹ.

Trong thời kỳ cho con bú, sữa mẹ đủ iod chứa khoảng 150-180 mcg/L. Trong 6 tháng đầu sau sinh, với 0,5 đến 1,1 lít sữa mỗi ngày, lượng iod mất đi hàng ngày trong từ sữa mẹ # 75 đến 200mcg/ngày.

 

Vậy, cơ sở để bổ sung và đánh giá mức độ dinh dưỡng đủ iod trong thai kỳ là gì?

● Iod niệu

● Kích thước tuyến giáp

● TSH huyết thanh sơ sinh

●Thyroglobulin huyết thanh

Và một số các test khác.

 

Trong khi kích thước tuyến giáp và thyroglobulin huyết thanh cho thấy tình trạng dinh dưỡng iod trong một khoảng thời gian vài tháng đến vài năm, iod niệu thường cho thấy tình trạng dinh dưỡng hiện tại và thường được sử dụng nhất trong cộng đồng.

Đầu tiên, mức độ Iod niệu chỉ ra tình trạng dinh dưỡng iod tối ưu trong thời gian mang thai và cho con bú:

- Hầu hết (>90%) iod được hấp thụ trong cơ thể cuối cùng xuất hiện trong nước tiểu, bài tiết iod qua nước tiểu là một dấu hiệu tốt của một chế độ ăn uống đủ lượng iod rất gần đây.

- Do đó, iod niệu trung bình trong dân số nói chung thay đổi từ 100 đến 199 mcg/L được coi là một chỉ số của một lượng iod đầy đủ và trạng thái tối ưu dinh dưỡng iod.

- Khi nhu cầu iod tăng lên trong thời kỳ mang thai, iod trung bình trong nước tiểu trong thời kỳ mang thai cho thấy dinh dưỡng iod tối ưu cần phải được cao hơn 100 mcg/L.

- Phân độ thiếu iod (xem hình).

Ngoài ra, kết quả sàng lọc TSH huyết thanh trẻ sơ sinh cũng được WHO xác nhận có thể sử dụng để làm chỉ số đánh giá mức độ dinh dưỡng đủ iod. Nồng độ TSH > 5mU/L thường gặp hơn ở những vùng thiếu iod và tương quan mức độ nặng của bệnh (suy giáp, suy giảm trí tuệ)

 

Tài liệu tham khảo:

Delange F. Optimal iodine nutrition during pregnancy, lactation and the neonatal period. Int J Endocrinol Metab 2004; 2:1.

Uptodate 2022. Iodine deficiency disorders.

return to top