✴️ Viêm da dạng Herpes có nguy hiểm?

Nội dung

Duhring – Brocq là một bệnh viêm da dạng Herpes, tự miễn dịch. Ðây là bệnh da sần – mụn nước, ngứa nhiều, đặc trưng bởi tổn thương phân bố đối xứng trên bề mặt duỗi như khuỷu tay, đầu gối, mông lưng, da đầu, gáy.

Vì sao mắc bệnh viêm da dạng Herpes?

Người ta cho rằng có một số yếu tố liên quan đến việc mắc bệnh đó là:

  • Do cơ thể tự miễn dịch: bệnh Duhring – Brocq thường có biểu hiện của bệnh tự miễn như viêm cầu thận, thiếu máu Bermeer, viêm tuyến giáp, Lupus ban đỏ hệ thống, viêm đa sụn mạn tính

  • Do gluten: gluten là một protein có trong ngũ cốc (trừ lúa và ngô) được xem như một kháng nguyên ở bệnh nhân Duhring – Brocq.

  • Thành phần của gluten có gliadin, chất này liên kết với reticulin là một chất quan trọng ở vùng màng đáy, nó có vai trò làm tăng sự bám dính của màng đáy. Chất gliadin còn kết hợp với chất ngoài tế bào làm tăng độ nhớt của mô.

  • Trong bệnh Duhring – Brocq, tăng độ nhớt ngoài tế bào kết hợp với sự khuyếch tán của dịch tổ chức ở nhú bì và dẫn đến hình thành mụn nước gây ra bệnh;

  • Do bệnh tiêu chảy mỡ: Ở bệnh nhân Duhring – Brocq gặp bệnh lý dạ dày – ruột, teo nhung mao ruột non, nhưng bệnh ruột non ở bệnh nhân Duhring – Brocq thường nhẹ hơn ở bệnh tiêu chảy

  • Do di truyền

Viêm da dạng herpes

Viêm da dạng Herpes

Nhận diện bệnh viêm da dạng Herpes

Khi mắc bệnh Duhring – Brocq, bệnh nhân thường có sốt nhẹ hoặc không sốt, mệt mỏi, sút cân, kém ăn. Ở vùng da sắp tổn thương thường có dấu hiệu báo trước là ngứa, sau đó là rát bỏng hoặc đau.  

Tổn thương thường gặp là mảng nốt sần, sần – mụn nước hay mề đay. Vì ngứa nhiều nên bệnh nhân phải gãi, vì thế có thể thấy xước da và nốt sần đóng vẩy.

Tổn thương mang tính chất đối xứng, vị trí thường gặp là: ở mặt gấp cẳng chân, cẳng tay, cánh tay, ở mông, đùi, lưng và bụng, ít gặp ở nách và xương cùng. Khoảng 4,6% bệnh nhân có tổn thương ở niêm mạc miệng.

Lúc đầu là các ban đỏ, mụn nước, sẩn, sau thành bọng nước, phân bố lẻ tẻ hay cụm lại từng đám. Bọng nước to bằng hạt ngô chứa dịch màu vàng chanh, có khi bọng nước xuất huyết.

Từ 5 – 7 ngày, bọng nước sẽ làm mủ và vỡ ra để lại vết trợt, đóng vảy tiết, vảy mủ. Tổn thương gồm nhiều giai đoạn như: ban đỏ, bọng nước, có chỗ loét, có chỗ chỉ để lại một dát sẫm màu. Bệnh tiến triển thành từng đợt, khi tăng khi giảm, có thời gian ổn định nhưng sau lại tái phát.

Một số trường hợp bệnh kéo dài suốt đời nhưng bệnh nhân vẫn có cuộc sống sinh hoạt lao động bình thường. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân cao tuổi có thể bị suy kiệt.

Xét nghiệm máu thấy bạch cầu ái toan tăng trên 10% hoặc hơn. Test bằng iodua kali (KI) dương tính (cho bệnh nhân uống 1g hoặc bôi tại chỗ mỡ KI 50% trong vaseline lên da, phản ứng xuất hiện sau 24 – 48 giờ dưới dạng ban đỏ ngứa hoặc bọng nước ngứa).

Test miễn dịch huỳnh quang có giá trị nhất để chẩn đoán viêm da dạng Herpes, thấy có lắng đọng IgA ở đỉnh nhú bì với tỷ lệ dương tính 85 – 90%.

Chẩn đoán xác định dựa vào bốn triệu chứng điển hình: ngứa ở da trước khi xuất hiện tổn thương, ban đỏ, sẩn, mụn nước, bọng nước.

Viêm da dạng herpes

Viêm da dạng herpes với triệu chứng điển hình là ngứa da trước khi xuất hiện tổn thương

Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh: Pemphigus thông thường thì tổn thương mang tính chất đơn dạng là bọng nước ở lớp thượng bì và test KI âm tính.

Bệnh Pemphigoid bọng nước là bệnh thường gặp ở người cao tuổi, bọng nước căng to khó vỡ, nếu vỡ thì chóng lành, test miễn dịch huỳnh quang trực tiếp phát hiện lắng đọng kháng thể IgG và  bổ thể ở màng đáy.

Ban đỏ đa dạng là tổn thương bị nhiễm tế bào như trong bệnhDuhring – Brocq. Chốc tổn thương là các bọng nước trên nền da viêm đỏ, bọng nước nhanh chóng vỡ để lại vảy tiết màu vàng chanh.

Mề đay dị ứng tổn thương là các ban đỏ, sẩn, phù, thường có ngứa nhưng điểm đặc biệt là xuất hiện nhanh và mất đi nhanh. Ngoài ra còn phân biệt với bệnh zona thần kinh, sẩn ngứa thể bọng nước… 

 

Chữa trị bệnh viêm da dạng Herpes

Việc điều trị tại chỗ chủ yếu dùng các dung dịch sát khuẩn như milian, tím metyl, xanh metylen bôi vào các tổn thương. Trường hợp tổn thương còn phỏng nước thì cần dùng kim vô khuẩn chọc thấm dịch trước khi bôi thuốc.

Đối với các tổn thương khô có thể bôi mỡ cloroxit, flucina. Trường hợp nặng, bệnh nhân có thể được chỉ định dùng thuốc toàn thân như sau: dùng corticoid 30 – 40mg/ngày, sau đó hạ liều dần trong 4 – 8 tuần. Kháng sinh erythromyxin uống 1 – 1,5gam/ ngày cho từng đợt 7 ngày trong 2 – 3 đợt.

Bệnh nhân đáp ứng nhanh chóng (chỉ trong 1 – 2 ngày) với thuốc dapson nhưng phải theo dõi sát để tránh biến chứng.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top