MỘT SỐ BỆNH NẤM DA THƯỜNG GẶP
Bệnh nấm vùng da đầu (tinea capitis):
Tổn thương chủ yếu ở tóc, da đầu cũng có thể bị viêm. Dựa vào hình thái lâm sàng có thể phân thành 4 loại:
Nấm đầu mảng xám (grey patch): Do các loại Microsporum gây ra, ở Việt Nam có thể gặp M.canis, M.ferrugineum, M.audouinii... Nấm xâm nhập vào tóc trong nang tóc, khi sợi tóc mọc lên nấm phá vỡ sợi tóc và hình thành một khối các bào tử đốt nhỏ (2 - 3 µm) bao bọc sợi tóc. Sợi tóc trở nên xám đục, gẫy cách da đầu vài mm, tổn thương thường thành các mảng tròn, có thể lan rộng ra toàn bộ vùng da đầu. Bệnh thường gặp ở trẻ em và lây lan thành dịch ở trường học.
Nấm đầu chấm đen (black dot): Thường do T.tonsurans, T.violaceum. Nấm sinh các bào tử đốt ở ngay trong sợi tóc làm sợi tóc yếu đi nhiều và đứt ngang sát da đầu, nhìn vào trông giống như những chấm đen nhỏ, da đầu bị viêm.
Hình 18.2: Nấm đầu
1. Nấm đầu mảng xám, 2. Nấm đầu chấm đen.
Nấm đầu mưng mủ (kerion): Thường do T.mentagrophytes, M.canis. Tổn thương viêm mủ các nang lông gần nhau, mủ bọc ở chân sợi tóc làm sợi tóc tuột đi tạo thành những mảng tròn gồ cao, trụi tóc.
Nấm đầu lõm chén (favus): Do T.schoenleinii. Da đầu bị viêm mạn tính, có những hình lõm chén 10 - 15 mm, bờ gồ cao, không đều, mủ tạo thành từ nang lông thành những vẩy bọc sợi tóc, tóc không rụng nhưng mất bóng, tổn thương có mùi hôi. Bệnh thường kéo dài làm teo da đầu, khi điều trị hết nấm tóc cũng không mọc lại. Bệnh thường gặp ở châu Phi.
Nấm má (tinea barbae):
Do M.canis, T.mentagrophytes, T.verrucosum... Bệnh nhân thường nhiễm nấm do tiếp xúc với thú nuôi trong nhà như chó, mèo... hoặc áp má lên lưng trâu bò.
Tổn thương thường ở một bên má hoặc ở cằm, có thể có các hình thái như nấm đầu.
Bệnh nấm vùng da nhẵn (tinea corporis):
Hắc lào (tinea circrinata): Tổn thương lúc đầu hơi đỏ, ranh giới rõ, có bờ viền, trên bờ viền có mụn nước nhỏ, giữa tổn thương có xu hướng lành. Tổn thương có thể lan rộng từng đám đa cung đường kính 1 - 2 cm hoặc bằng bàn tay. Do ngứa gãi chà xát... dễ nhiễm khuẩn thứ phát. Thường ở chỗ nếp gấp lớn, bí mồ hôi: 80% ở thắt lưng, mông, bẹn.
Hình 18.3: Hắc lào
Vẩy rồng (tinea imbricata, Tokelau) do T.concentricum gây ra. Bệnh kéo dài nên cả vùng da lớn bị, có khi cả thân mình. Da không viêm nhưng ngứa, tróc vảy, vẩy xếp thành những hình đồng tâm. Ở Việt Nam bệnh hay gặp ở vùng dân tộc ít người, rất khó chữa.
Hình 18.4: Bệnh nấm vảy rồng
Nấm móng (tinea unguum, onychomycosis):
Do Trichophyton và Epidermophyton gây ra.
Tổn thương thường bắt đầu từ bờ tự do, móng bị nhiễm nấm khi bệnh nhân gãi hoặc từ lưng bàn tay, bàn chân lan vào móng, ngược lại móng bị nhiễm nấm có thể reo rắc bào tử sang những vùng da khác. Móng lỗ chỗ dày lên, vàng đục, biến dạng, có những mảnh vụn như lõi sậy, cạo ra có màu hơi vàng, móng dần dần tách khỏi nền móng. Tổn thương có thể lan tới móng khác hoặc vùng da khác, đôi khi gây viêm quanh móng, tiến triển dai dẳng, hay tái phát.
Hình 18.5: Nấm móng
Nấm kẽ:
Thường do T.rubrum, T.mentagrophytes, E.floccosum…
Bệnh gặp nhiều ở các nước phát triển do đi giày, tắm bể nhiều, bệnh thường vào mùa nước hoặc những đợt mưa dầm, ở những người phải lội bùn nhiều. Mùa hè mồ hôi ẩm ướt ở các kẽ chân, đi giày cao su kín là điều kiện thuận lợi dễ mắc bệnh.
Vị trí: Thường ở kẽ ngón chân 3 - 4 vì các ngón sít với nhau hơn.
Da bị bợt trắng hoặc trợt loét, rất ngứa, có khi nổi mụn nước ở ria các ngón. Có thể lan sang kẽ khác, lan lên mu bàn chân hay xuống lòng bàn chân. Dễ bị nhiễm trùng gây mụn mủ, vẩy da, vẩy tiết tại chỗ, bàn chân sưng nề, nổi hạch bẹn.
Dị ứng do nấm da (Dermatophytid,"Id" reaction):
Các tổn thương ở xa nơi nấm kí sinh gây bệnh, tại chỗ xét nghiệm không thấy nấm, và sẽ mất đi khi bệnh nấm được điều trị khỏi.
Các loại T.mentagrophytes, T.verrucosum thường hay gây dị ứng.
Biểu hiện: Tổ đỉa ở tay, bờ ngoài bàn chân.
Hình 18.6: Tổn thương dị ứng do nấm da
CHẨN ĐOÁN
Dựa vào dịch tễ, lâm sàng và xét nghiệm:
Dịch tễ: Trong đơn vị có nhiều bị nấm da, người nghi ngờ bị bệnh có tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với bệnh nhân...
Lâm sàng: Bệnh nấm da thường mãn tính dai dẳng, nhất là bệnh do T.rubrum. Thường chẩn đoán phân biệt với các bệnh da khác như vảy nến, chàm, phong, viêm nang lông sâu, bệnh da có phỏng nước khác, chốc do liên cầu...
Xét nghiệm:
Đèn Wood: Đèn Wood tạo ra tia cực tím bước sóng 3.660 Ao, cho bệnh nhân vào buồng tối, chiếu đèn cách da đầu bệnh nhân 15 - 30 cm, những sợi tóc nhiễm nấm sẽ phát huỳnh quang (có màu xanh vàng sáng nếu tóc nhiễm M.audouinii, M.canis, M.ferrugineum, màu xanh trắng đục nếu tóc nhiễm T.schoenleinii).
Xét nghiệm trực tiếp: vẩy da, tóc, móng... bằng dung dịch KOH 10 - 20%. Có thể thấy sợi nấm, bào tử đốt.
Hình 18.7: Sợi nấm và bào tử đốt trong vẩy da
Nuôi cấy: Cấy bệnh phẩm vào môi trường Sabouraud có cloramphenicol và cycloheximid để ở nhiệt độ phòng, có thể sau 1 - 3 tuần mới thấy nấm mọc. Định loại nấm dựa vào hình thái đại thể, vi thể và các nghiệm pháp sinh học như: Nghiệm pháp xuyên tóc, các yếu tố cần thiết cho sự phát triển...
ĐIỀU TRỊ
Nguyên tắc:
Phát hiện sớm, điều trị kịp thời (khi nấm giản đơn, bệnh lẻ tẻ, chưa thành dịch).
Điều trị liên tục, triệt để, đủ thời gian.
Dùng thuốc thích hợp tùy vùng da, tùy người, mức độ bệnh.
Tránh kì cọ mạnh, cạo sát da khi bôi thuốc.
Kết hợp điều trị với dự phòng.
Nếu bệnh chỉ ở da, không có biến chứng thường chỉ cần bôi thuốc tại chỗ. Bệnh nấm da đầu, nấm móng, nấm da mãn tính hoặc lan rộng, bôi thuốc tại chỗ không tác dụng cần phải kết hợp thuốc uống.
Thuốc:
Thuốc đông y: Dung dịch cồn rễ uy linh tiên (kiến cò) 30 - 50%, cồn lá hoặc rễ muồng trâu 20 - 30%, cồn lá chút chít, cao săng lẻ.
Thuốc tây y:
Thuốc nước:
ASA (aspirin 10g, salicylic natri 8g, alcool 700 100ml).
BSI (axit benzoic 2g, axit salicylic 2g, iod 2g, alcool 700 100ml).
Thuốc mỡ: Benzosali, axit salicylic 1 - 2%, Whitfield (acid benzoic 6g, acid salicylic 3g, vaselin 100g ), azole (miconazole, clotrimazole, ketoconazole...), terbinafine...
Phác đồ Cục Quân y điều trị hắc lào:
Tuần 1: ASA BSI bôi sáng chiều.
Tuần 2: Sáng bôi BSI, chiều bôi mỡ benzosali.
Tuần 3 - đến khỏi: Mỡ benzosali bôi sáng chiều.
Có thể uống kết hợp griseofulvin 0,25 x 4 viên/ngày x 3 - 4 tuần.
Thuốc uống: Griseofulvin, các thuốc nhóm azole (ketoconazole, itraconazole...), nhóm allilamines (terbinafine). Terbinafine là thuốc mới, hiện được coi là thuốc tốt nhất để điều trị nấm da, với nấm móng thuốc có tỉ lệ tái phát thấp nhất, ít tác dụng phụ.
Một số phác đồ điều trị nấm da:
Nấm móng: Terbinafine 250 mg / ngày x 6 tuần với nấm móng tay, 12 tuần với nấm móng chân, có thể thay thế bằng itraconazole 200mg / ngày x 3 tháng. Do itraconazole tồn lưu lâu trong mô keratin (6 - 9 tháng) nên hiện nay đã có những nghiên cứu dùng nhịp trị liệu (pulse therapy) cho các trường hợp nấm móng, liều 200 - 400mg / ngày x 1 tuần, nghỉ 3 tuần dùng tiếp nhịp thứ hai, với nấm móng chân dùng tiếp nhịp thứ ba.
Nấm tóc: Griseofulvin 500 mg/ngày cho đến khi lành (6 - 8 tuần), terbinafine 250 mg / ngày x 4 tuần, itraconazole100mg/ngày x 4 tuần.
Nấm da lan rộng: Griseofulvin 500mg/ngày cho đến khi lành (4 - 6 tuần), kết hợp với bôi mỡ azole, terbinafine 250 mg / ngày x 2 - 4 tuần, itraconazole 100 mg / ngày trong x 15 ngày hay 200 mg / ngày x 7 ngày.
DỊCH TỄ HỌC VÀ PHÒNG CHỐNG
Dịch tễ học:
Bệnh nấm da hay gặp ở các nước nhiệt đới. Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới nóng ẩm, điều kiện vệ sinh còn nhiều hạn chế nên bệnh nấm da rất phổ biến. Trong nhân dân bệnh có tỉ lệ cao thứ hai sau bệnh chàm. Trong quân đội nấm da chiếm tỉ lệ cao nhất trong các bệnh da, (trung bình 7 - 10%, có thể tăng cao tới 25 - 30%. Tỉ lệ tăng vào mùa hè, trong điều kiện luyện tập chiến đấu lao động vất vả.
Phòng chống:
Phòng cá nhân: Gồm các biện pháp bảo vệ da. Nấm lây truyền cần những yếu tố thuận lợi như: Da bị sang chấn, mồ hôi lép nhép làm bở lớp sừng, cọ sát làm da xung huyết, điều kiện thiếu vệ sinh, ít tắm giặt, để cho bào tử, sợi nấm bám vào da có đủ thời gian nảy nở và phát triển gây bệnh. Để đề phòng nấm da lan truyền xâm nhập vào da thì khâu vệ sinh cá nhân rất quan trọng.
Tắm giặt đều, không để mồ hôi, bụi bặm bám lâu trên da, tránh kì cọ, cạo sát mạnh trên da. Giữ khô các nếp bẹn, kẽ chân... sau khi tắm rửa.
Tránh nấm da ở đầu, tóc: Luôn giữ sạch da đầu, tóc, tránh bụi, ẩm ướt, cần đội mũ nón thích hợp, tránh quá chật và quá bí, phải gội đầu sạch hàng tuần, trường hợp tóc nhờn quá thì cần gội nhiều lần hơn, khi tóc khô và nhiều gầu nên gội đầu ít hơn. Không nên dùng các loại xà phòng gội đầu có nhiều chất kiềm vì làm tóc khô và dễ rụng. Nên gội đầu bằng nước bồ kếp, xà phòng thơm xong xả bằng nước sạch, có thể gội bằng chanh, nước lá dứa, lá bưởi.
Thường xuyên cắt móng tay, móng chân, tóc...
Tránh mặc quần áo quá ẩm ướt, quần lót không nên dùng vải nilon và quá chật gây xây sát da, bí mồ hôi.
Hạn chế tiếp xúc với động vật như chó, mèo...
Phòng chống tập thể:
Vệ sinh môi trường: Nơi ở phải thoáng mát, nhà cửa cao ráo, sạch sẽ, tránh bụi bậm, nước tắm đủ dùng, sạch (nước mưa, nước máy, nước giếng), phải có xô, chậu, phải có dây phơi ngoài nắng.
Vệ sinh nhà cửa, quần áo, chăn màn, giường chiếu là những nơi lưu giữ bào tử nấm. Chăn chiếu phải định kì giặt giũ, tránh để ẩm mốc, phơi quần áo, chiếu, giày tất để diệt bào tử nấm.
Không dùng chung lược, khăn lau, quần áo, chăn màn... tránh lây lan.
Phát hiện sớm, điều trị kịp thời triệt để bệnh nhân. Khi có người bị nấm da nên cách li, luộc quần áo, phơi nắng, quần áo cần lộn trái trong khi phơi nắng. Phòng bệnh nấm da bằng hóa chất: Vận động viên, bộ đội và những đối tượng thường xuyên đi giày có thể dùng bột talc có axit undecylenic rắc vào giày, tất đề phòng nấm kẽ, dùng NaPCP (natripentachlorophenolat) 1% kết hợp với kẽm sulfat 1% phun vào các thảm chùi chân, thảm trải trong nhà để phòng nấm kẽ. Tại Việt Nam, Bộ môn - Khoa Da liễu Học viện Quân y đã nghiên cứu ứng dụng tẩm NaPCP và sulfat kẽm vào quần lót phòng chống nấm ở thắt lưng, mông, bẹn cho bộ đội đã thu được kết quả tốt.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh