Thành công trong phẫu thuật ghép thận đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ của nhiều chuyên khoa, trong đó chẩn đoán hình ảnh giữ một vai trò tương đối quan trọng về phương diện đánh giá các đặc điểm của người cho cũng như người nhận trước khi tiến hành ghép thận. Ngoài ra, chẩn đoán hình ảnh cũng là một trong những phương tiện để theo dõi tình hình bệnh nhân sau ghép thận.
Là một phương pháp ít xâm hại, có thể làm đi làm lại nhiều lần, có thể sử dụng trong theo dõi tình trạng mạch máu thận sau ghép, phát hiện các bất thường kèm theo như: sỏi, nang thận..
Thông qua hình ảnh siêu âm Doppler màu của thận người cho, giúp chúng ta xác định được tình trạng lưu thông lòng mạch máu thận để lựa chọn thận lấy, theo dõi sau khi ghép thận.
Kết quả chụp hệ niệu không chuẩn bị cho thấy vị trí, hình dáng bóng thận, ngoài ra còn có thể thấy các hình ảnh cản quang tương ứng với vị trí của hệ tiết niệu, thường là hình ảnh sỏi niệu.
Chụp hệ niệu có tiêm thuốc cản quang đường tĩnh mạch là phương pháp chẩn đoán hình ảnh cơ bản. Thông qua hình ảnh ngấm thuốc ở đài bể thận có thể xác định được chức năng của thận, hình ảnh bất thường về cấu trúc đài bể thận.
Để chuẩn bị cho ghép thận, người cho phải được chụp động mạch thận. Kết quả chụp động mạch thận có vai trò rất quan trọng, giúp đánh giá số lượng, độ dài, đường kính động mạch thận…, từ đó lựa chọn thận ghép phù hợp. Thông qua hình ảnh động mạch thận các phẫu thuật viên có chiến lược trong mổ, đảm bảo an toàn với người cho và với thận ghép.
Kinh điển, chụp cản quang động mạch thận được tiến hành theo phương pháp Seldinger : luồn ống thông qua động mạch đùi, đưa lên động mạch chủ, đến chỗ phân nhánh của động mạch thận (thường ngang với mức liên đốt L1 – L2), bơm thuốc cản quang chụp động mạch thận toàn bộ, luồn ống thông vào động mạch từng bên bơm thuốc cản quang chụp động mạch thận chọn lọc.
Do những tiến bộ về khoa học công nghệ điện toán, gần đây đã ứng dụng phương pháp chụp mạch thận số hóa xóa nền. Có thể làm tăng đậm độ mạch máu thận, xóa những hình ảnh như xương, phần mềm, bằng cách chồng hai hình ảnh trước và sau tiêm thuốc cản quang, cuối cùng còn lại hình ảnh của mạch máu
(Thận có 01 động mạch)
Ngày nay, với phương pháp chụp CT xoắn ốc, MSCT ( Multi Slices Computer Tomography) với 64 dãy đầu dò, cho phép đánh giá tốt nhiều bất thường hệ mạch máu thận: số lượng, xuất phát, đường đi, đo kích thước, khẩu kính, độ dài mạch máu..Phát hiện hẹp, đóng vôi mạch máu. CT không những đánh giá động mạch mà còn cho hình ảnh rất tốt về hình ảnh tĩnh mạch thận-đây là hình ảnh đôi lúc rất hạn chế trên chụp mạch qui ước.
Đối với người nhận, CT giúp đánh giá tình trạng bệnh lý trên thận bị tổn thương (thận đa nang, ung thư thận..), các bệnh lý các cơ quan khác (u gan, u vùng chậu..). Đặc biệt CT cho phép đánh giá tốt tình trạng xơ vữa nặng các mạch máu vùng chậu-một vấn đề quan trọng trong lập kế hoạch tiền phẫu ghép thận..
Vấn đề đánh giá thận sau ghép, CT là kỹ thuật khảo sát hình ảnh tốt trong đánh giá các biến chứng thông thường ngay sau hoặc lâu dài sau phẫu thuật ghép thận. CT cho phép đánh giá tốt tình trạng bình thường các mạch máu ghép (chụp mạch máu trên CT), chức năng thận, tình trạng tưới máu, tắc nghẻn (dynamic CT), tình trạng các cấu trúc xung quanh thận ghép như tụ máu, tụ dịch, viêm nhiễm quanh thận ghép..CT cho phép khảo sát đồng thời các bộ phận, cơ quan khác để theo dõi biến chứng khác: thoát vị thành bụng, viêm phổi, tắc ruột.. CT có thể dùng như là phương tiện dẫn đường trong các can thiệp hình ảnh học như sinh thiết, chọc hút dịch..
(Thận có 02 động mạch)
Tạo hình ảnh từ chụp cộng hưởng từ là một kỹ thuật mới, gần đây được ứng dụng trong nghiên cứu đặc điểm giải phẫu thận, đánh giá tình trạng chức năng thận. Dựa trên nguyên lý nhân Hydro la Proton có nhiều trong cơ thể người (nước, mỡ, phân tử hữu cơ) khi được đặt trong một từ trường mạnh, được kích thích bằng sóng vô tuyên điện có tần số thích hợp, sẽ phát ra một tín hiệu, một hệ thống thông tin sẽ biến những tín hiệu trên thành hình ảnh.
Do nguyên lý của chụp cộng hưởng từ (MRI) không sử dụng tia X, nên không gây tác hại cho cơ thể. Phương pháp này cho phép tạo hình theo 3 mặt phẳng thẳng góc, trong không gian thẳng, nghiêng và ngang. Chụp MRI cho phép làm nhiều mặt cắt theo mọi mặt phẳng không gian, do đó dễ dàng cho phép nhận định đặc điểm hình thái nhu mô thận, phát hiện các bệnh lý thận như: u thận, nang thận, xác định chính xác tình trạng khoang sau phúc mạc. Chụp MRI có tiêm thuốc cản quang đặc hiệu sẽ chuẩn hóa các hình ảnh thận, mạch máu thận
Hình ảnh học của phóng xạ hạt nhân trên đường niệu dục có lợi điểm là không san chấn, cho những thông tin về sinh lý cũng như về giải phẫu và người bệnh chịu một liều phóng xạ rất nhỏ. Dị ứng gần như không nhận thấy khi tiêm những dược chất phóng xạ, chỉ có xạ hình là có thể cho những thông tin về chức năng và lưu lượng do đó rất cần trong đánh giá chức năng thận, lưu lượng máu thận và bệnh lý tắc thận tắc nghẽn
Đánh giá chức năng thận người cho và theo dõi thận còn lại sau cho thận là một việc làm rất quan trọng trong chương trình ghép thận. Đánh giá chức năng thận có thể dựa vào định lượng nồng độ creatinine huyết thanh, tính độ lọc cầu thận (ĐLCT) theo các phương pháp như đo độ thanh lọc Creatinine 24 giờ, dựa vào công thức Cockcroft & Gault. Nhưng các phương pháp này lại khó mà đánh giá được chức năng từng thận riêng biệt. Trong khi đó kỹ thuật đồng vị phóng xạ theo phương pháp Gates trên máy Gamma Camera (hoặc máy SPECT) đã khắc phục được nhược điểm này. Đây là một phương pháp đơn giản dùng dược chất phóng xạ Tc-99m DTPA, tiêm vào tĩnh mạch rồi xạ hình, xạ ký thận trong 6 phút, không yêu cầu lấy mẫu máu hoặc mẫu nước tiểu để thử mà vẫn có thể tính được ĐLCT chung, cũng như ĐLCT của từng thận riêng biệt, tính phần trăm đóng góp chức năng của từng thận.
ĐLCT thận trái = ĐLCT chung x % hấp thu thận trái
ĐLCT thận phải = ĐLCT chung x % hấp thu thận phải
Cách ghi hình: sau khi tiêm Tc-99m DTPA, bệnh nhân được khi hình thận động, mỗi hình 15 giây, tổng cộng 120 hình trong 30 phút. Như vậy, theo phương pháp ghi hình của Gates chỉ trong 6 phút (24 hình) và tiếp tục ghi hình thêm trong 24 phút tiếp tục nhằm có thể đánh giá thêm chức năng đào thải nước tiểu từ thận xuống bàng quang.
Các hướng dẫn thực hành hiện tại cho rằng chỉ chọn cho thận khi đọ lọc cầu thận chung của hai thận tối thiểu phải trên 80 ml/phút, nên lấy thận có chức năng kém hơn, ưu tiên để lại thận tốt hơn với người cho.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh