Tên thuốc: Lyrica
Thành phần: Pregabalin
Nhóm trị liệu: Chống động kinh.
Hoạt chất chính, pregabalin, gamma-aminobutyric acid (GABA) analogue ((S)-3- (aminomethyl)-5-methylhexanoic acid).
Các nghiên cứu in vitro đã cho thấy Lyrica (pregabalin) gắn với 1 subunit phụ (< 2-TM protein) của dòng calci mang điện trong hệ thống thần kinh trung ương, thay thế [3H]-gabapentin. 2 dẫn chứng trên cho thấy sự gắn kết của pregabalin vào < 2-TM protein là cần thiết cho tác dụng giảm đau và chống co giật trên động vật: (1) Các nghiên cứu với đồng phân hữu tuyền không có hoạt tính và các dẫn chất có cấu trúc khác của pregabalin và (2) Các nghiên cứu về trên chuột đột biến với thuốc có khả năng gắn vào < 2-TM protein kém. Thêm vào đó, pregabalin giảm giải phóng một số chất dẫn truyền thần kinh, bao gồm glutamate, noradrenaline. Sự quan trọng của những tác động này trên lâm sàng với pregabalin chưa được biết.
Pregabalin không có ái lực với các thụ thể tiếp nhận hoặc các đáp ứng gắn với tác dụng của một số thuốc thường sử dụng trong điều trị động kinh hoặc đau. Pregabalin không tương tác với các chất ức chế GABAA hoặc GABAB; không được chuyển hóa thành GABAA hoặc chất ức chế GABAB ; Pregabalin không phải là một chất ức chế sự tạo thành và phân hủy của GABA.
Pregabalin ngăn ngừa đau liên quan tới hoạt động trên động vật với đau thần kinh hoặc đau sau phầu thuật, bao gồm tăng cảm giác đau và đau do kích thích.
Pregabalin có hoạt tính trên động vật động kinh, bao gồm động kinh do sốc điện cơ duỗi trên chuột, động kinh ngưỡng rung giật với pentylenetetrazol, động kinh hành vi và điện đồ ở chuột được kích thích vùng hải mã.
Hiệu quả của Lyrica (pregabalin) trong điều trị đau thần kinh được tiến hành trên 10 nghiên cứu mù đôi, giả dược có kiểm soát, nhiều trung tâm với cả liều 2 lần/ngày (BID) và 3 lần/ngày (TID). Tổng số 2099 bệnh nhân tham gia 10 nghiên cứu. Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu phải bị đau vừa đến đau nặng.
Tỷ lệ đáp ứng giảm đau 30% tính theo điểm cho thấy sự tương quan giữa đáp ứng của bệnh nhân được tăng theo sự tăng liều dùng, từ 34-49% ở liều 150 mg/ngày đến 54-65% với liều 600 mg/ngày, so sánh với 19-45% của giả dược. Tỷ lệ đáp ứng giảm đau 50% tính theo điểm cho thấy sự tương quan giữa đáp ứng của bệnh nhân được tăng theo sự tăng liều dùng, từ 19-34% ở liều 150 mg/ngày đến 39-50% với liều 600 mg/ngày, so sánh với 10-30% của giả dược.
Sự giảm đau đáng kể được thấy từ tuần 1 và duy trì tương ứng với giả dược trong suốt quá trình điều trị.
Ảnh hưởng đến giấc ngủ giảm đáng kể trong tuần 1, khi bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin trong đau thần kinh, và được duy trì trong suốt quá trình điều trị.
Đến 88 % bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin với liều 300-600 mg/ngày được báo cáo có hiệu quả so với 26-66% của bệnh nhân dùng giả dược, được đánh giá bằng sự cải thiện của điểm số về sự thay đổi toàn diện có giá trị trên cơ thể (PIGC).
Hiệu quả của pregabalin trong điều trị động kinh được chứng minh qua tất cả các nghiên cứu dựa trên sự giảm động kinh so sánh với giả dược. Tỷ lệ đáp ứng được xác định dựa theo tỷ lệ các bệnh nhân giảm ≥ 50% tần số động kinh cục bộ trong quá trình trị liệu so với đường nền. Các tỷ lệ đáp ứng là 14-31% với liều 150 mg/ngày, 40% ở liều 300 mg/ngày, và 43-51 % ở liều 600 mg/ngày so với 6-14% ở giả dược, cho thấy đáp ứng với mỗi liều dùng.
Tần số động kinh được thấy giảm đáng kể trong tuần đầu. Tổng quát, có sự giảm đáng kể về tần số động kinh qua thời gian điều trị 12 tuần.
Dược động học ổn đinh của Lyrica (pregabalin) là giống nhau trên những người tình nguyện khỏe mạnh, các bệnh nhân động kinh đang dùng thuốc chống động kinh và các bệnh nhân đau mãn tính.
Lyrica (pregabalin) được hấp thu nhanh khi uống lúc đói, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được sau 1 giờ trong cả dùng liều đơn và liều đa.
Khả dụng sinh học đường uống của pregabalin khoảng 90% và phụ thuộc vào liều dùng. Trong dùng nhắc lại, tình trạng ổn định đạt được trong 24-48 giờ. Tỷ lệ hấp thu của pregabalin giảm khi dùng cùng thức ăn dẫn đến Cmax giảm khoảng 25-30% và kéo dài tmax sau khoảng 2,5 giờ. Tuy nhiên, dùng pregabalin cùng thức ăn không có ảnh hưởng lâm sàng đáng kể nào đến mức độ hấp thu pregabalin.
Trong các nghiên cứu tiền lâm sàng, Lyrica (pregabalin) dễ dàng qua hàng rào máu não ở chuột nhắt, chuột cống và khỉ. Pregabalin qua được nhau thai ở chuột cống và xuất hiện trong sữa chuột. Ở người, thể tích phân phối của pregabalin sau khi dùng đường uống khoảng 0,56 L/kg. Pregabalin không gắn kết với protein huyết tương.
Lyrica (pregabalin) được chuyển hóa không đáng kể trong cơ thể người. Sau khi dùng pregabalin phóng xạ đánh dấu, khoảng 98% được tìm thấy trong nước tiểu là pregabalin ở dạng chưa chuyển hóa. Dẫn xuất N-methylate của pregabalin, chất chuyển hóa chính của pragabalin được tìm thấy trong nước tiểu, chiếm khoảng 0,9% liều dùng. Trong các nghiên cứu tiền lâm sàng, không có dấu hiệu nào về sự biến đổi pregabalin đồng phân tả tuyền thành đồng phân hữu tuyền.
Lyrica (pregabalin) được thải trừ khỏi hệ tuần hoàn chủ yếu do bài tiết qua thận nguyên dạng.
Thời gian bán thải trung bình của pregabalin là 6,3 giờ. Thanh thải pregabalin huyết tương và thanh thải thận tỷ lệ thuận với thanh thải creatinin.
Điều chỉnh liều trên các bệnh nhân giảm chức năng thận hoặc thẩm tách máu là cần thiết.
Tuyến tính/ không tuyến tính
Dược động học của Lyrica (pregabalin) là tuyến tính trong khoảng liều đơn hàng ngày.
Khoảng biến thiên của dược động học của pregabalin là thấp (< 20%). Các đặc tính dược động học của liều đa có thể dự đoán từ các dữ liệu của liều đơn.
Giống loài: Lyrica (pregabalin) được thấy là không bị ảnh hưởng bởi giống nòi (da trắng, da đen, La tinh và châu á)
Giới tính: Các thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy không có ảnh hưởng lâm sàng đáng kể nào đến nồng độ huyết tương của Lyrica (pregabalin)
Thanh thải Lyrica (pregabalin) tỷ lệ thuận với thanh thải creatinin. Thêm vào đó, pregabalin được loại bỏ hiệu quả khỏi huyết tương nhờ thẩm tách máu (sau 4 giờ thẩm tách máu nồng độ huyết tương của pragabalin giảm khoảng 50%). Bởi vì thải trừ qua thận là đường thải trừ chính, giảm liều với bệnh nhân suy thận và dùng liều bổ sung với bệnh nhân thẩm tách máu là cần thiết.
Không có các nghiên cứu đặc hiệu tiến hành trên các bệnh nhân suy gan. Vì pregabalin được chuyển hóa không đáng kể và thải trừ chủ yếu qua nước tiểu ở nguyên dạng, bệnh nhân suy gan không có thay đổi đáng kể về nồng độ huyết tương.
Thanh thải Lyrica (pregabalin) có xu hướng giảm theo sự tăng của tuổi. Sự giảm thanh thải pregabalin đường uống không phụ thuộc vào sự giảm thanh thải creatinin liên quan đến sự tăng của tuổi.
Cần giảm liều pregabalin trên các bệnh nhân tổn thương chức năng thận do tuổi cao.
Lyrica (pregabalin) được chỉ định trong điều trị đau thần kinh cho người lớn.
Lyrica (pregabalin) được chỉ định như là liệu pháp bổ trợ trong động kinh cục bộ, có hoặc không kết hợp điều trị tổng quát với bệnh nhân trên 12 tuổi.
Quá mẫn với hoạt chất chính hoặc bất kỳ tá dược nào của thuốc.
Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng
Các bệnh nhân với các bệnh lý di truyền hiếm gặp về dung nạp galactose, thiếu enzyme Lapp latase hoặc kém hấp thu glucose-galatose không dùng thuốc này.
Theo các thực hành lâm sàng hiện tại, một số bệnh nhân tiểu đường tăng cân khi dùng pregabalin cần điều chỉnh việc dùng các thuốc hạ đường huyết.
Điều trị bằng pregabalin thường xảy ra chóng mặt và buồn ngủ, có thể tăng nguy phải được chỉ dẫn cần thận trọng cho đến khi quen với các ảnh hưởng có thể của thuốc.
Chưa có các dữ liệu đầy đủ về việc ngưng kết hợp với các thuốc chống động kinh khác.
Lyrica (pregabalin) có thể gây chóng mặt hoặc buồn ngủ. Do vậy, bệnh nhân được khuyên không nên lái xe, vận hành máy móc phức tạp hoặc tham ra các hoạt động mạo hiểm khác cho đến khi xác định được thuốc có ảnh hưởng đến việc thực hiện các động tác này không.
Chưa có các dữ liệu đầy đủ về dùng Lyrica (pregabalin) trên phụ nữ có thai.
Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy tác dụng gây độc trên khả năng sinh sản. Nguy cơ về rủi ro trên người chưa được biết. Do vậy, pregabalin không dùng khi đang mang thai trừ khi lợi ích mang lại cho người mẹ rõ ràng quan trọng hơn những khả năng rủi ro có thể xảy ra cho thai nhi.
Chưa biết được pregabalin có bài tiết qua sữa người hay không; tuy nhiên, thuốc có xuất hiện trong sữa chuột. Do vậy, không được nuôi con bằng sữa mẹ khi đang dùng thuốc.
Do pregabalin được thải trừ chính qua nước tiểu ở dạng chưa chuyển hóa, một lượng không đáng kể được chuyển hóa (< 2% của liều dùng được tìm thấy trong nước tiểu ở dạng chuyển hóa), không kìm hãm chuyển hóa thuốc trong ống nghiệm (in vitro), và không gắn với protein huyết tương, pregabalin không tạo ra tương tác, hoặc bị tương tác dược động học.
Các nghiên cứu in vivo không cho thấy liên quan về tương tác dược động học lâm sàng với phenytoin, carbamazepine, valproic acid, lamotrigine, gabapentin, lorazepam, oxycodone hoặc ethanol. Thêm vào đó, phân tích hướng đối tượng đã chỉ ra rằng 3 nhóm thuốc thường dùng, các thuốc chống tiểu đường dùng đường uống, các thuốc lợi tiểu và insulin, và việc thường dùng các thuốc chống động kinh, phenytoin, carbamazepine, valproic acid, lamotrigine, phernobarbital, tiagabine, và topiramate, không có ảnh hưởng lâm sàng đáng kể nào đến thanh thải pregabalin. Tương tự như vậy, các phân tích này cũng cho thấy pregabalin không có ảnh hưởng lâm sàng đáng kể nào đến thanh thải phenytoin, carbamazepine, valproic acid, lamotrigine, topiramate và phernobarbital.
Dùng chung pregabalin với các thuốc tránh thai đường uống norethisterone và/hoặc ethinyl oestradiol không ảnh hưởng đến sự ổn định về dược động học của cả 2 loại thuốc.
Dùng liều đa đường uống pregabalin kết hợp với oxycodone, lorazepam, hoặc ethanol không có tác động lâm sàng quan trọng nào đến sự hô hấp. Sự có mặt của Pregabalin tăng thêm rối loạn nhận thức và chức năng vận động gây ra bởi oxycodone. Pregabalin có thể tăng tác dụng của ethanol và lorazepam.
Chương trình thử nghiệm lâm sàng với Lyrica (pregabalin) được tiến hành trên hơn 9000 bệnh nhân dùng pregabalin, của trên 5000 thử nghiệm mù đôi giả dược có kiểm soát. Các tác dụng không mong muốn thường gặp được báo cáo gồm chóng mặt và buồn ngủ. Các tác dụng không mong muốn thường nhẹ và vừa. Trong tất cả các nghiên cứu có kiểm soát, tỷ lệ ngưng dùng thuốc do các tác dụng không mong muốn là 13% với các bệnh nhân dùng pregabalin và 7% với các bệnh nhân dùng giả dược. Các tác dụng không mong muốn chủ yếu đưa đến ngưng dùng nhóm pregabalin là chóng mặt và buồn ngủ.
Lyrica được uống cùng thức ăn hoặc không.
Liều khởi đầu đề nghị với Lyrica (pregabalin) là 75 mg dùng 2 liều/ngày (150 mg/ngày), cùng thức ăn hoặc không. Trên các thử nghiệm lâm sàng, hiệu quả của pregabalin được chứng minh trên bệnh nhân dùng liều từ 150-600 mg/ngày. Với phần lớn bệnh nhân, liều 150 mg chia 2 lần/ngày là liều tối ưu.
Hiệu quả của pregabalin được thấy rõ trong tuần đầu tiên. Tuy nhiên, tùy theo đáp ứng của từng cá thể và sự dung nạp, liều dùng có thể tăng lên 150 mg chia 2 liều/ngày sau khoảng thời gian 3-7 ngày, và nếu cần, có thể tăng đến liều tối đa 300 mg chia 2 lần/ngày sau tuần kế tiếp.
Liều khởi đầu đề nghị với Lyrica (pregabalin) là 75 mg dùng 2 liều (150 mg/ngày), dùng kèm hoặc không kèm thức ăn. Trong thử nghiệm lâm sàng, hiệu quả của pregabalin được thể hiện trên các bệnh nhân dùng liều từ 150-600 mg/ngày. Với hầu hết bệnh nhân, liều 150 mg chia làm 2 lần là liều tối ưu.
Hiệu quả của pregabalin được thấy rõ ngay trong tuần điều trị đầu tiên. Tuy nhiên, tùy theo sự dung nạp và đáp ứng của từng bệnh nhân, liều dùng có thể tăng từ 150 mg dùng 2 liều sau 3-7 ngày, và nếu cần, có thể tăng đến liều tối đa 300 mg dùng 2 liều sau tuần kế tiếp.
Không cần thiết phải theo dõi nồng độ pregabalin huyết tương trong điều trị với pregabalin.
Pregabalin không thay đổi nồng độ huyết tương của các thuốc chống co giật thường dùng. Tương tự như vậy, các thuốc chống co giật thường dùng cũng không ảnh hưởng đến nồng độ pregabalin huyết tương.
Theo các thực hành lâm sàng hiện tại, nếu ngưng điều trị Lyrica (pregabalin), cần ngưng từ từ trong tối thiểu 1 tuần.
Lyrica (pregabalin) được thải trừ nguyên dạng chủ yếu qua thận, thanh thải pregabalin tỷ lệ thuận với thanh thải creatinine, giảm liều trên các bệnh nhân tổn thương chức năng thận phải tùy theo từng cá nhân và theo hệ số thanh thải creatinine (ClCr), được trình bày trong bảng 1 sử dụng công thức:
ClCr (ml/phút) = [140-tuổi (năm)] x cân nặng (kg) / [72 x creatinine huyết thanh], (x 0,85 với BN nữ).
Pregabalin được loại bỏ hiệu quả khỏi huyết thanh nhờ thẩm tách máu (50% thuốc sau 4 giờ). Với các bệnh nhân đang làm thẩm tách máu, liều hàng ngày của pregabalin cần được điều chỉnh tùy theo chức năng thận. Bên cạnh liều dùng hàng ngày, liều dùng bổ trợ nên được dùng ngay sau mỗi 4 giờ thẩm tách máu (xem bảng 1).
Bảng 1. Điều chỉnh liều pregabalin theo chức năng thận.
Thanh thải creatinine |
Tổng liều pregabalin hàng ngày |
|
Chế độ trị liệu |
|
Liều khởi đầu (mg/ngày) |
Liều tối đa (mg/ngày) |
|
≥ 60 |
150 |
600 |
BID |
30-60 |
75 |
300 |
QD hoặc BID |
15-30 |
25-50 |
150 |
QD hoặc BID |
< 15 |
25 |
75 |
QD |
Liều bổ trợ sau thẩm tách máu |
25 |
100 |
Liều đơn + |
BID = Chia 2 liều/ngày
QD = Liều đơn/ngày
* Tổng liều (mg/ngày) cần chia như được chỉ định trong cách dùng theo mg/ngày
+ Liều bổ trợ là liều đơn bổ sung
Không cần chỉnh liều trên các bệnh nhân suy gan.
Sự an toàn và hiệu quả của Lyrica (pregabalin) trên trẻ em dưới 12 tuổi chưa được thiết lập.
Các bệnh nhân thiếu niên bị động kinh có thể dùng liều như người lớn.
Hiệu quả và an toàn của Lyrica trên các bệnh nhân dưới 18 tuổi bị đau thần kinh chưa được thiết lập.
Không cần chỉnh liều với người già trừ trong trường hợp tổn thương chức năng thận (xem bảng 1).
Trong trường hợp quá liều đến 15g, không có tác dụng không mong muốn nào được báo cáo. Quá liều Lyrica (pregabalin) cần tiến hành các biện pháp bổ trợ có thể gồm cả thẩm tách máu nếu cần thiết.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh