Biệt dược: Navelbine ®.
Tên khác: Vinorelbine tartrate.
Nhóm dược lý: Vinorelbine là thuốc hóa trị liệu kháng ung thư hay gây độc tế bào. Phân nhóm: Alkaloid thực vật.
1. Chỉ định:
Vinorelbine được sử dụng trong các trường hợp:
Lưu ý: Nếu một thuốc đã được phê duyệt cho một chỉ định, bác sĩ đôi khi chọn sử dụng cùng loại thuốc này cho các chỉ định khác nếu họ cho rằng nó có thể có hiệu quả.
2. Cách dùng:
3.Tác dụng phụ:
Bên cạnh những tác dụng cần thiết cho điều trị, Vinorelbine có thể gây ra một số tác dụng phụ không mong muốn.
Một số vấn đề cần lưu ý về những phản ứng phụ của vinorelbine bao gồm:
Những tác dụng phụ sau là phổ biến (xảy ra hơn 30%) đối với bệnh nhân dùng Vinorelbine:
Dưới đây là các tác dụng không mong muốn ít phổ biến hơn (xảy ra ở 10-29%) đối với bệnh nhân dùng vinorelbine:
Không phải tất cả các phản ứng phụ đều được liệt kê ở trên, một số hiếm gặp (xảy ra ở dưới 10% bệnh nhân) không được liệt kê ở đây. Tuy nhiên, nên luôn luôn thông báo cho nhân viên y tế nếu gặp bất kỳ triệu chứng bất thường.
Khi nào cần liên lạc với bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của bạn:
Liên hệ ngay, ban ngày hoặc ban đêm, nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng nào sau đây:
Các triệu chứng sau cần được chăm sóc y tế, nhưng không phải là tình huống khẩn cấp. Liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của bạn trong vòng 24 giờ khi nhận thấy bất kỳ trường hợp nào sau đây:
Thông báo cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu gặp bất kỳ triệu chứng bất thường nào.
4. Thận trọng:
Phụ nữ đang mang thai hoặc có thể mang thai phải được thông báo về nguy cơ tiềm ẩn đối với thai nhi.
5. Lời khuyên tự chăm sóc:
6. Theo dõi và kiểm tra:
7. Cơ chế tác dụng của Vinorelbine:
Các khối u ung thư được đặc trưng bởi sự phân chia tế bào, quá trình phân chía này không còn được kiểm soát như khi còn trong một mô bình thường. Các tế bào “bình thường” ngừng phân chia khi chúng tiếp xúc với một tế bào tương tự, theo một cơ chế gọi là sự ức chế tiếp xúc. Tế bào ung thư mất khả năng này. Tế bào ung thư bị mất hệ thống kiểm soát và giới hạn số lần phân chia. Quá trình phân chia tế bào, cho dù tế bào bình thường hay ung thư, đều thông qua chu kỳ sinh trưởng tế bào. Chu kỳ tế bào đi từ giai đoạn nghỉ ngơi, thông qua giai đoạn phát triển tích cực, và sau đó là phân bào (phân chia).
Khả năng thuốc trị ung thư diệt tế bào ung thư phụ thuộc vào khả năng ngăn chặn sự phân chia tế bào. Thông thường, các loại thuốc này hoạt động bằng cách phá hủy những RNA hoặc DNA – nhưng chất báo cho tế bào biết làm thế nào để tự sao chép trong khi phân chia tế bào. Nếu các tế bào không thể phân chia, chúng sẽ chết. Tế bào phân chia càng nhanh, thuốc trị ung thư càng có nhiều khả năng giết tế bào, làm khối u co lại. Chúng cũng gây ra quá trình chết theo chương trình (tế bào tự chết theo chương trình).
Thuốc trị ung thư nào ảnh hưởng đến các tế bào chỉ khi các tế bào đang phân chia được gọi thuốc trị ung thư đặc hiệu với chu kỳ tăng trưởng của tế bào (cell-cycle specific). Ngược lại, thuốc trị ung thư ảnh hưởng đến các tế bào khi chúng được nghỉ ngơi được gọi là thuốc trị ung thư không đặc hiệu với chu kỳ tăng trưởng của tế bào. Kế hoạch đưa liều hóa trị liệu được thiết lập dựa trên loại tế bào ung thư, tốc độ phân chia và thời gian mà một loại thuốc nhất định có thể có hiệu quả. Đây là lý do tại sao hóa trị thường được dùng theo từng đợt điều trị.
Hoá trị liệu có hiệu quả nhất trong việc diệt những tế bào nào phân chia nhanh chóng. Thật không may, hóa trị liệu không nhận biết được sự khác biệt giữa các tế bào ung thư và các tế bào bình thường. Sau khi dừng hóa trị liệu, các tế bào “bình thường” sẽ phát triển trở lại và khỏe mạnh nhưng trong khi dùng thuốc hóa trị, các phản ứng phụ sẽ xảy ra. Các tế bào “bình thường” thường bị ảnh hưởng bởi hóa trị là các tế bào máu, các tế bào trong miệng, dạ dày và ruột, và các nang lông/tóc; dẫn đến lượng máu thấp, loét miệng, buồn nôn, tiêu chảy hoặc rụng tóc. Các loại thuốc khác nhau có thể ảnh hưởng đến các bộ phận khác nhau của cơ thể.
Hoá trị liệu (thuốc chống ung thư) được chia thành năm nhóm dựa trên cách chúng hoạt động để tiêu diệt ung thư. Mặc dù các loại thuốc này được chia thành các nhóm, một số loại thuốc cụ thể có thể thuộc nhiều nhóm khác nhau. Sau đây là các loại hóa trị liệu:
Vinorelbine thuộc một nhóm thuốc hóa trị gọi là “alkaloids thực vật”. Alkaloid thực vật có nguồn gốc từ thực vật. Các Alkaloid Vinca được chiết từ cây dừa cạn (Catharanthus rosea). Các taxan thu được từ vỏ cây Pacific Yew (taxus). Các alkaloids vinca và taxan còn được gọi là các chất chống vi quản (antimicrotuble agents). Các podophyllotoxins có nguồn gốc từ cây táo (May apple). Các chất tương tự Camptothecan có nguồn gốc từ cây “Hạnh phúc” ở châu Á (Camptotheca acuminata). Podophyllotoxin và các chất tương tự camptothecan được gọi là chất ức chế enzyme topoisomerase. Các alkaloid thực vật là thuốc đặc hiệu đối với chu kỳ sinh trưởng của tế bào, nghĩa là chúng tấn công các tế bào trong các giai đoạn phân chia tế bào khác nhau.
Các thuốc chống vi quản (antimicrotuble agents) như vinorelbine, ức chế các cấu trúc vi quản trong tế bào. Các vi quản (Microtubules) là một phần của bộ máy tế bào để phân chia và nhân lên của chính nó. Ức chế các cấu trúc này cuối cùng dẫn đến sự chết của tế bào.
Lưu ý: Chúng tôi đặc biệt khuyến khích bạn thảo luận với chuyên gia chăm sóc sức khoẻ về tình trạng và điều trị bệnh cụ thể của bạn. Thông tin trong trang web không thay thế cho các lời khuyên về y tế.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh