✴️ Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ tuyến vú (FNA tuyến vú)

FNA tuyến vú là gì ?

FNA tuyến vú là kỹ thuật hút lấy tế bào và mẫu mô bệnh phẩm vú bằng một kim nhỏ. Mẫu bệnh phẩm này sau đó sẽ được xử lý và phân tích tại khoa giải phẫu bệnh để đưa ra chẩn đoán về mặt tế bào học.

 

Chỉ định FNA tuyến vú.

  • Đánh giá các khối tổn thương sờ được ở vú.
  • Khối thấy được qua siêu âm hoặc nhủ ảnh
  • Phân biệt các quá trình viêm và các quá trình tân sinh.
  • Phân biệt các tổn thương lành tính và các tổn thương ác tính.
  • Xác định sự tái phát và di căn của bệnh.

 

Giá trị của FNA tuyến vú.

FNA tuyến vú đơn giản, an toàn, nhanh chóng, kinh tế. Có độ nhạy 90-95%, độ đặc hiệu 99,8%, giá trị tiên đoán dương 99,7%, giá trị tiên đoán âm 94,2%, độ chính xác 96,5%.

Tỷ lệ âm tính giả của FNA vú thấp, liên quan đến các trường hợp chẩn đoán khó hoặc lỗi trong quá trình lấy mẫu (không đủ tế bào để chẩn đoán) .

Tỷ lệ dương tính giả của FNA vú cũng rất thấp, do phân tích sai các tổn thương u sợi tuyến, u nhú trong ống và các tổn thương dạng nhú khác.

Ở những quốc gia phát triển, nguồn lực y tế cao, sự kết hợp giữa lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và FNA tuyến vú được gọi là “The triple test” có tỷ lệ tiên đoán dương đạt 100%.

 

Hệ thống phân loại FNA tuyến vú.

Nhóm 1-Không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán : phết có quá ít tế bào biểu mô, phết quá dày, tế bào bị hồng cầu che lấp hoặc tế bào không được bảo tồn tốt. Đủ tiêu chuẩn chẩn đoán có ít nhất  4 đám tế bão ; có ít nhất 6 tế bào/ đám tế bào 3 chiều ; có ít nhất 10 tế bào/ đám tế bào 2 chiều.

Nhóm 2-Lành tính: Khi phết đủ tiêu chuẩn chẩn đoán nhưng không có các đặc điểm ác tính. Nhóm này bao gồm các tổn thương lành tính như viêm, hoại tử mỡ, biến đổi sợi bọc, u sợi tuyến. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể chẩn đoán được từng thực thể bệnh riêng biệt.

Nhóm 3-Không điển hình: khi phết có hình ảnh lành tính nhưng có một số đặc điểm không điển hình như tế bào phân bố rời rạc, một vài tế bào có nhân to và méo mó. Một số trường hợp phết có cấu trúc dạng nhú hoặc giàu chất nhầy cũng được xếp vào nhóm này.

Nhóm 4-Nghi ngờ ác tính : phết có đặc điểm tế bào hướng tới ác tính nhưng chưa đủ để chẩn đoán ác tính

Nhóm 5-Ác tính: khi phết có hình ảnh ác tính rõ ràng. Xác định loại tổn thương ác tính là carcinoma, sarcoma, lymphoma. Đối với carcinoma tuyến vú, có thể hướng tới một số loại mô học đặc biệt….

 

Tế bào học một số bệnh lý tuyến vú thường gặp

- Viêm vú : Chọc hút ra chất dịch mủ màu vàng. Phết dầy, giàu tế bào, chủ yếu là bạch cầu đa hân trung tính, nhiều sợi fibrin và một số cụm tế bào biểu mô lành tính. Ngoài ra còn còn có thể thấy các đại thực bào, đại thực bào nhiều nhân. Kết quả tế bào học được xếp vào nhóm lành tính. Tuy nhiên có thể thấy các tế bào biểu mô và tế bào trung mô phản ứng không điển hình với nhân lớn, hạch nhân to rõ có thể gây nhầm lẫn nhóm 3.

viêm vú cấp    giải phẫu bệnh viêm vú cấp

(Viêm vú cấp - Phết có nhiều bạch cầu trung tính và mô bào, nền lam dơ)

 

- Viêm tuyến vú kinh niên : Chọc hút ra chất dịch sệt như phô mai. Nền là chất vô định hình hoặc chất dạng hạt. Nhiều tế bào viêm chủ yếu lympho bào, tương bào, bọt bào. Chỉ có vài cụm nhỏ tế bào biểu mô thoái hóa hoặc phản ứng.

- Viêm vú dạng hạt : Phết giàu tế bào, đặc trưng của viêm hạt là đám tế bào dạng biểu mô và đại bào nhiều nhân. Ngoài ra còn có những thành phần tế bào khác như lympho bào, tương bào. Tế bào dạng biểu mô có nhân hình bầu dục kéo dài hoặc hình quả thận, hạch nhân rõ, bào tương nhiều, xếp thành đám, ranh giới giữa các tế bào không rõ. Viêm hạt do lao có đại bào Langhans, nền hoại tử bã đậu và tế bào dạng biểu mô.

Viêm hạt do chỉ phẫu thuật hoặc silicon, đại bào chứa mảnh sợi chỉ hoặc silicon trong bào tương.

 Kết quả tế bào học được xếp vào nhóm 2.

- Hoại tử mỡ: Chọc hút ra chất nhờn mỡ. Phết nghèo tế bào. Nền bẩn, có các tế bào mỡ thoái hóa, hoại tử, các không bào mỡ và các mảnh vỡ tế bào lắng đọng canxi. Thành phần chủ yếu các đại thực bào chứa nhiều không bào nhỏ (đại thực bào ăn mỡ) hoặc ứ đọng hemosiderin, lympho bào, tương bào, đại bào nhiều nhân, các mảnh mô sợi và mạch máu tân sinh. Thường phết chỉ có một ít tế bào biểu mô; một số tế bào có thể phản ứng với tình trạng viêm, có nhân không điển hình, đa dạng, tăng sắc, hạch nhân to rõ, có thể gây nhầm lẫn với nhóm 3.

 

hoại tử mỡ tuyến vú  đại thực bào tế bào mỡ

            (  Hoại tử mỡ (mũi tên)     Đại bào nhiều nhân thực bào mỡ )

 

- Thay đổi sợi bọc: Hình ảnh tế bào học thay đổi tùy theo tổn thương có kèm theo hoặc không kèm theo tăng sinh biểu mô. Những tổn thương thay đổi sợi bọc không tăng sinh chỉ có tổn thương tạo bọc và xơ hóa. Trong trường hợp tổn thương là một bọc lớn, chọc hút ra dịch trong hoặc đục, màu vàng chanh, xanh hoặc nâu do xuất huyết cũ. Phết có thể không có tế bào hoặc chỉ có các bọt bào. Cũng có thể thấy vài đám nhỏ tế bào biểu mô ống tuyến vú lành tính hoặc tế bào chuyển sản đỉnh tiết. Kết quả được xếp vào nhóm 2.

Trường hợp tổn thương xơ hóa nhiều và hoặc có các bọc nhỏ : phết nghèo tế bào, gồm có vài cụm tế bào biểu mô có nhân nhỏ đồng dạng, một ít tế bào cơ biểu mô nằm rải rác, các mảnh mô đệm và sợi mỡ. Nền tiêu bản thấy một ít chất dịch và bọt bào. Kết quả tế bào học được xếp vào nhóm 2.

Trường hợp biến đổi sợi bọc tăng sinh, phết có mật độ tế bào từ trung bình đến cao, nhiều đám lớn tế bào biểu mô kết dính nhau chặt chẽ. Cần phân biệt 2 nhóm tăng sinh không kèm tình trạng không điển hình tế bào và tăng sinh kèm tình trạng không điển hình tế bào. Những trường hợp tăng sinh không kèm tình trạng không điển hình tế bào, các đám tế bào biểu mô có nhân hơi lớn và hơi chen chúc, kết dính chặt chẽ, vẫn còn hình ảnh như tổ ong, nhân không dị dạng, nhiễm sắc thể dạng hạt mịn, hạch nhân không rõ, không có tế bào rời rạc, nhiều tế bào cơ biểu mô. Những trường hợp tăng sinh kèm tình trạng không điển hình tế bào các đám lớn tế bào biểu mô có cấu trúc phân nhánh phức tạp hơn, không còn rõ hình ảnh tổ ong, đôi khi có dạng sàng, tạo lòng ống, tế bào tăng kích thước, chen chúc và chồng chất, kết dính chặt chẽ hoặc lỏng lẽo, nhân lớn (>2 lần hồng cầu), tăng sắc, hơi đa dạng, hạch nhân rõ, màng nhân kém đều, tế bào cơ biểu mô còn nhưng với số lượng ít hơn. Tăng sinh không điển hình tế bào được xếp vào nhóm 3, cần phải đối chiếu với lâm sàng và hinh ảnh học để xem xét chỉ định sinh thiết và xét nghiệm mô bệnh học.

Thay đổi sợi bọc ở vú không tăng sinh

(phết gồm đám tế bào biểu mô vú tạo thành lớp và đám tế bào chuyển sản đỉnh tiết )

- U sợi tuyến: Chọc hút ra chất dạng nhầy, dính ở đốc kim. Phết rất giàu tế bào, có hình ảnh hai pha đặc trưng (biểu mô/mô đệm). Các tế bào biểu mô kết dính chặt chẽ, xếp thành mảng lớn hình tổ ong hoặc các đám phân nhánh giống “sừng hưu”. Nhân lớn hơn bình thường, phân bố đều, chất nhiễm sắc thể mịn, hạch nhân tròn nhỏ. Nền tiêu bản có nhiều tế bào cơ biểu mô và nhiều mảnh mô đệm dạng niêm. Kết quả tế bào học được xếp vào nhóm 2.

- Tổn thương dạng nhú: Chọc hút có thể ra một ít dịch. Phết giàu tế bào. Các tế bào biểu mô tăng sinh mạnh, tạo thành các cấu trúc 2 hoặc 3 chiều, phân nhánh phức tạp và có thể nối kết nhau tạo thành 1 mạng lưới; ở rìa nhú, các tế bào biểu mô có thể có dạng hình trụ xếp hàng rào. Một số cấu trúc nhú chứa trục liên kết mạch máu ở giữa. Nền phết có chất dịch, một ít tế bào cơ biểu mô và bọt bào, có thể thấy các đại thực bào ứ đọng hemosiderin do xuất huyết cũ.

- Carcinôm tuyến vú: Carcinôm vú gồm carcinôm tại chỗ và carcinôm xâm nhập. Phân biệt tổn thương tại chổ và tổn thương xâm nhập có ý nghĩa lâm sàng rất lớn, nhưng trên phết tế bào học, do cấu trúc mô học không còn được bảo tồn nên khó có thể phân biệt được(đây cũng là hạn chế của FNA vú là không thể xác định tính chất xâm nhập của ung thư).

 Vì vậy, tế bào học thường xếp chung carcinôm tại chổ và carcinôm xâm nhập vào nhóm 5 (carcinôm tuyến vú). Đối với carcinôm tuyến vú độ  cao, tế bào học ác tính rõ ràng, dễ dàng xếp vào nhóm 5, trái lại, đối với carcinoma tuyến vú độ thấp, hình ảnh tế bào có thể chồng lấp với tăng sản không điển hình, nhiều khi có thể xếp vào nhóm 4 hoặc nhóm 3.  

Carcinôm dạng nhầy của vú

(Gồm chất nhầy ngoài tế bào, các tế bào đơn lẻ có kích thước nhỏ đến trung bình, nhân tròn nằm lệch tâm).

 

Biến chứng của kỹ thuật FNA tuyến vú.

Biến chứng của kỹ thuật FNA tuyến vú thường ít gặp.

Có thể là bầm máu hoặc chảy máu dưới da.

Tràn khí màng phổi là một biến chứng hiếm gặp (khi lấy mẫu ở vị trí đuôi vú). Bệnh nhân tràn khí màng phổi sẽ có triệu chứng đau ngực dữ dội, đột ngột, hình ảnh X-quang ghi nhận dấu hiệu tràn khí màng phổi. Tuy nhiên, một số bệnh nhân không có triệu chứng sau khi thực hiện thủ thuật nhiều giờ. Không ghi nhận các trường nghiêm trọng đe dọa đến mạng sống.

Nguy cơ gieo rắc tế bào u theo đường kim của các loại tổn thương ác tính cần được lưu ý.

 

Tổng kết

FNA tuyến vú là một phương tiện cận lâm sàng thực hiện nhanh, chính xác, chi phí rẻ tiền với tỷ lệ biến chứng thấp. Độ nhạy và giá trị dự báo dương cao trong chẩn đoán các bệnh lý tuyến vú.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

  1. Orell & Sterrett’s Fine Needle Aspiration Cytology, fifth edition.
  2. Atlas of Fine Needle Aspiration Cytology, Second Edition, Henryk A. Domanski.
  3. The International Academy of Cytology Yokohama System for Reporting Breast FineNeedle Aspiration Biopsy Cytopathology.
  4. Bài giảng lý thuyết tế bào học, 2015-2016, Bộ môn Giải phẫu bệnh Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top